Từ
bên kia bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T-54 và các sư đoàn Bắc Việt
đã xoá nát văn kiện Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973 tiến dần về Nam. Như là một
định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặt và bức tử theo ván bài chiến
lược quốc tế được quyết định từ ngoài cương thổ Việt Nam. Hoa Kỳ làm
ngơ, thế giới cúi mặt trong lúc lãnh thổ miền Nam lần lượt lọt vào tay
quân đội chính quy Bắc Việt. Quảng Trị mất, kế đến là Huế, Đà Nẵng, Qui
Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết… Và rồi đầu tháng Tư 1975, mặc
dầu bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh của tướng Lê Minh Đảo cầm chân quyết liệt tại
Long Khánh suốt 12 ngày đêm, Bắc quân lại
tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn.
Quân
ta cứ rút, cứ rút. Vũng Tàu, những ngày cuối tháng tư năm 1975, một
trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc, cũng đang lên cơn sốt hốt
hoảng và náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu
từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ
nước, tuyệt vọng, cùng đường. Ngày 26 tháng 4, quân đội miền Bắc tấn
chiếm Biên Hoà, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và Vũng Tàu
bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết.
Trường
Thiếu Sinh Quân, mặc dù toạ lạc ngay cửa
ngõ của thị trấn, nhưng bị ngăn cách bởi những vách tường đá kiên cố
bao quanh, những giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn đã
không lọt được vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn
như mọi ngày. Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết), đang trong
thời gian học thi tốt nghiệp, vẫn cắm cúi miệt mài với bài vở. Trong
thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng
Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 đã được nhà trường cho về với gia
đình. Các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình
hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân. Không khí nhà trường
vì thế càng tăng vẻ yên tĩnh, nặng nề. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở
nên ngột ngạt và căng thẳng dần
khi chúng tôi nhận ra những nét lo âu, bức xúc trên gương mặt của các
cán bộ, nhân viên cơ hữu của trường.
Ngày 28 tháng 4,
chúng tôi được lệnh tập họp sau bữa ăn chiều. Trung Tá Ngô Văn Dzoanh,
Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm
và tuyên bố:
- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu. Nhà trường đã có kế hoạch di tản!
Mặc
dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường,
tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được
chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ.
Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày
mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên,
trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên
những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối chui rúc dưới lông
cánh gà mẹ trong lúc diều hâu đang lờ lững lượn trên vòm trời .
Khung
trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu
Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những lo âu của anh em lại
trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo
từ đâu xé gió rít qua không gian… và Ầm! Ầm! Tiếng nổ ù tai của những
viên đạn rớt vào chân núi đài viba ngay đằng sau lưng trường.
Đại
Úy Lê Viết Đắc, cán bộ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp
12, rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược xuôi ra lệnh cho các Thiếu Sinh Quân
nằm sát xuống đất
để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào
xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ
đang dáo dác bảo vệ đàn con. Không biết mục tiêu của những viên trọng
pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay là đơn vị đồn trú tại đài
viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng đạn nổ và cảnh núp đạn lần đầu
tiên kể từ ngày vào trường đã gieo cho những đầu óc còn non nớt chỉ
biết ăn, học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ
về sự sống và sự chết.
Chúng tôi vẫn nằm yên. Địch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.
Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác hụt hẫng, hoang mang, toàn
trường như bất động lắng nghe tiếng Đại Úy Hoàng, cán bộ liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:
-
Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu sinh quân cấp trưởng trang bị vũ
khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập họp kiểm điểm
quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh.
Thế là hết !
Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của
tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế một giờ trưa, toàn
thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả
cán bộ, nhân viên. Đoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến
lớn. Là Thiếu Sinh Quân tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp
12, tôi đi hàng đầu cùng các em
nhỏ. Đội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu
chói chang. Đa số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến
tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương
lai, nay phải đoạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những
bước bùi ngùi, vương vấn. Đi về đâu? Với ai?
Thông báo
toàn trường sẽ được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho
những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính. Đi
được nửa đường thì đột nhiên chúng tôi bị một số binh sĩ Thuỷ Quân Lục
Chiến chặn lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện với người chỉ huy toán
lính. Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí
và sắc mặt của cả hai bên
đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoán Thuỷ
Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi
phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban xuống.
Trên
đường về, tâm hồn của tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc
càng sát nách, đường thoát bị tắt nghẽn, sinh lộ càng lúc càng
hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản thật là mong manh
Về
đến trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông
báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch này, chúng tôi sẽ
được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Đôi 7 ở ngoài khơi
Vũng Tàu.
Thời gian như chậm lại trong giây phút chờ đợi nặng nề. Cả đám chúng
tôi cùng bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp
xuống sân trường. Niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên cùng đám bụi mù
tung cao theo cánh quạt. Hành khách của chuyến không vận đầu tiên này
gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung Sĩ 1 Ngộ, cán bộ trường, và 7
em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu Ðoàn Quang Trung, là liên lớp nhỏ nhất của
trường.
Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường.
Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian ngóng đợi kéo dài
khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như là một thế kỷ.
Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng của chiếc trực thăng, chờ âm
thanh của những cánh quạt.
Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi buổi chiều
càng lúc càng ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng
ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn
trường, ngao ngán.
Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ
nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời khỏi
cổng trường. Trái tim nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới
với hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những
người. Loa phóng thanh một lần nữa xác định một thực tế phũ phàng:
- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa, các em hãy tự lo lấy bản thân!
Thế
là quá rõ. Chúng tôi đã bị bỏ rơi. Ngôi trường
này là nhà. Các cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết phải làm
gì, biết đi về đâu. Thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tung ra tản
mát chạy khỏi trường. Chạy đi đâu? Chẳng biết ! Tại sao chạy? Chẳng
hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!
Tôi
và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc (hiện ở tại Việt Nam), cùng
chạy chung. Tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn
sau núi, chúng tôi chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra
tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn
nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa, trốn trong nhà. Thật không
khác một đám loạn kiêu binh
Tôi thấy ở phía trước mặt,
cách chỗ tôi đứng khoảng 200
thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi bị một người lính,
không biết là ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng của
em. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt tôi và Thịnh vội vàng vất súng và
quay ngược chạy trở về trường. Trong phút giây này, có lẽ chỉ có trường
tạm thời còn là tổ ấm dung thân. Mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu
sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra bãi trước và từ bãi
trước trở về trường như vậy.
Về đến gần trường, tôi
chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha
của Vân là Thiếu Úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường. Gia đình của
Vần nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa
xin tạm náu. Bố mẹ
Vần dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vần nhìn Thịnh và tôi đang ngấu nghiến
ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên được
ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi.
Là
những bạn học cùng lớp, Vần còn có gia đình ruột thịt ở bên cạnh, hai
đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi dạt về đâu trong cơn
biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trờI, đêm đen đã trùm kín không
gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗI lo âu. Mọi người cứ ngồi
nhìn nhau chẳng ai nói một lời.
Trong lúc mọi người đang chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trong trường vọng lại:
- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường!
Chúng em cần các anh lắm.
Tiếng gọi của em nhỏ Thiếu
Sinh Quân vang vọng trong màn đêm, thúc bách não nuột như tiếng kêu chim
chíp của gà con mất mẹ, làm cho tôi vô cùng xốn xang, bức xúc. Các em
chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm
bọc. Là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm
của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở
trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay
quanh trường, nhưng tiếng gọi loa đã khiến tôi phải đứng lên và cương
quyết trở lại trường với các em. Bố Mẹ Vần lo lắng khuyên chúng tôi đổi
ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vần và nói trước khi cùng Thịnh phóng vào đêm tối:
- Tụi con không thể
bỏ các em được!
Về đến trường, các bạn cùng liên lớp
với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh cũng đã có mặt.
Tôi nhận thấy các bạn đã phá cửa kho vũ khí của trường và đang hì hục
khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán các Thiếu Sinh Quan khác
thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu cơm và luộc thịt. Thế là tôi vớ
lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu carbine cùng với Thịnh, cũng trang
bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách
nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.
Nhìn
lên bầu trời đen thẳm với nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ
lan man với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo
bọc đàn em, chúng tôi sẵn sàng
cho một cuộc chiến. Cuộc chiến này sẽ đi về đâu ? Chúng tôi không biết.
Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn.
Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn
sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai
muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thân cuối cùng của chúng tôi.
Tôi
và Thịnh vác súng đi một vòng toàn trường. Thăm các chốt và các chòi
canh. Các chốt canh gác các hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ
khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn
những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên những ổ súng, thành
thạo nạp những băng đạn vào súng, sẵn sàng khai hoả, tôi bỗng thấy các
em chợt lớn lên
như những anh hùng Phù Đổng. Tôi đặt mật khẩu dặn các chốt canh phải
học thuộc, nếu thấy bóng người thì lên tiếng hỏi. Trả lời không đúng mật
khẩu là “quạng” liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động
và sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.
Sau khi dạo vài
lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu
thông thuộc, tất cả mọi người đều được phân phát khẩu phần đầy đủ. (
Nhìn càng bạn “chén” bữa cơm nửa khê, nửa sống một cách ngon lành, tôi
có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập
trường của các bạn.)
Tôi và Thịnh quay lên phòng làm
việc của chỉ huy trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn
tha
thiết gì nữa. Cậu ta chui ngay vào một góc và chỉ vài phút sau là đã
bắt đầu “kéo đờn cò.” Ngoài trời đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài
đứng trên ban công nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết
gia đình Vần đang làm gì và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn
hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại được
bữa cơm đó.
Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên
tĩnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã “hồn bướm mơ tiên,” tuy
nhiên hẳn cũng đã phân công thay phiên nhau ngủ. Những con gà con rối
loạn chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ
đang nằm phục sẵn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh
hổ này lợi hại đến
nhường nào.
Tôi quay lại phòng chỉ huy trưởng, và ngủ
thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà
quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bấy giờ mới
được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hằng năm, mỗi lần được về phép
thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ
cho tiền. Hai cô em gái của tôi thì rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà
có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh
em chúng tôi lại đến vòi mẹ xin tiền rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em
đi chợ. Đi gần đến chợ thì… một em Thiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở
mắt thấy trời hừng sáng. Em nói
Anh Dũng ! Có lính đông lắm, đang đi về phía
mình
Tôi bật dậy, nhảy ngay ra ban công nhìn về hướng
đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ
tối, cảnh vật rất yên tĩnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì và nghĩ cậu bé lay
mình dậy chắc vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hoá cuốc. Sắp sửa
quay lưng trở về chỗ nằm thì tôi chợt nghe tiếng oang oang của Hạ Sĩ
Hoành, các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo. Anh Hoành là hạ sĩ
quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên với sự hiện diện của Hạ Sĩ Hoành,
chẳng biết Anh nhập cuộc từ bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:
- Tụi bay ở đó đi! Chắc là lính mình đó ! Để tao ra coi thử!
Cùng
đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành liên lớp 12 và một Thiếu Sinh
Quân nữa tôi không
biết tên. Đến lúc đó tôi mới phát hiện có môt nhóm người lố nhố ở tít
đằng xa đang tiến dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo
dõi và dặn anh em chuẩn bị sẵn sàng cho mọi bất trắc. Đột nhiên, tất cả
chúng tôi đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:
- Việệt Cộộộng!
Tiếng
hô vừa dứt thì lập tức tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số,
phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề khai hoả yểm trợ cho đồng
đội chạy trở vào trường. Bắc quân chắc không thể nào ngờ họ lại được đón
tiếp một cách “nồng hậu” như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút,
hoả lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất
ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc
vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và
bỏ trống. Những phút giây khai hoả dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất
cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí
ứng phó 5/5.
Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã choàng
thức và ngạc nhiên, lo âu, nhìn về hướng trường Thiếu Sinh Quân. Một
buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn
nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng (hiện đang định cư tại Seatle,
Washington ) và Phạm Ngọc Trình (đã chết ở Việt Nam) chạy lúp xúp sang
ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Đến ban quân số, tầng trên đã
chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang.
Thoắt một cái khẩu trung liên
Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ
giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ khẩu đại liên trên lầu gào lớn:
- Ê, tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!
Tiếng
gào của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều
ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù. Mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng
bùng vì tiếng đạn tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng
Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì
hết sức tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ
sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào
cũng sẽ tấn công để chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm
của những tay súng Thiếu Sinh Quân liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở
vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng “điếc không sợ súng”
và ý nghĩ “không còn gì để mất!”
Bên ngoài, trời đã bắt
đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm
trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở bên
kia đường và chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế
của chúng tôi khai hoả từ trên cao. Một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như
súng cối, súng phóng lựu, B-40 để công phá chúng tôi từ mặt đất, vì với
vị trí phòng thủ kiên cố, hoả lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp
được chúng tôi.
Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả
đạn pháo
của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị
pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các
em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị
trúng thương. Tiếp theo là một phát B-40 thổi tung cổng trường, một em
Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cửa đóng
lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy.
Tất cả sự việc xảy ra trong vòng không đầy một phút, em vừa kịp lách
mình vào thành đá là một quả B-40 thứ hai nốI tiếp một lần nữa mở toang
cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó
chẳng ai “thèm” chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt, đánh nhau mới
“sướng!”
Mặc
dầu có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ
thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Đối phó
với địch quân trên tầng lầu khách sạn, Phú Văn Đại cầm khẩu M-79 bắn
trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào
mà xử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với
anh chàng này. Đối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên
phối hợp với các khẩu trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót cho nhau.
Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm
chừng của các khẩu garant nhịp nhàng ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm
đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một giàn nhạc
giao hưởng điêu luyện và biến thành một lướI đạn chằng chịt phủ xuống
đầu đốI phương.
Với quân số hơn một tiểu đoàn chính quy
Bắc Việt, đối phương dồn hoả lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến đến
gần chúng tôi. Nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không
hề nao núng trước làn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc
Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.
Đến
khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng chỉ huy trưởng, tôi chạy băng qua phòng
quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên đặt tại đó. Qua
hai cánh cổng mở toang, tôi thấy một bộ đội cộng sản đang đặt khẩu
phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi. Tôi bật ngay khẩu carbine trên
tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc, viên đạn từ nòng súng của hắn cũng
xẹt ánh sáng xanh bay về phía tôi. Chệch qua mặt tôi khoảng hai gang
tay, viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân Trí Dũng phá tan một mảnh đá
lớn.
Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê
rần. Khuỵu xuống vớI chân phải bị trúng thương, tôi liếc nhìn xuống
chiếc áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc ngạc
nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà không cảm thấy một
chút đau đớn gì thì tôi ngã ra ngất xỉu. Trong lúc đó Lâm A Sáng cũng bị
một phát đạn vào chân. Lê Văn Tánh (còn ở tại Việt Nam) chạy lại băng
bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.
Thế
là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn
Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn hoá. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh
Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến
bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.
Các anh em
Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ
sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều
đình ngừng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự
vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ Quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm
drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi
trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu
hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà
thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn cũng phải
thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng
trường.
Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn
100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường
trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, chỉ còn vài chục em
nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị bắt
giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. TrạI Gia Binh
Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân. Kết quả là
tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở
đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở Trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về
rừng.
Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng
Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau
đớn vì miểng đạn, mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở
bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này tôi vẫn
không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương lẫn nhau
hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân.
Bệnh viện
đầy ngập những người bị thương. Nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi
bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm chẳng có y tá nào ngó ngàng tới. Chỉ
có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau, tình cờ do một
duyên may tôi mới được biết tên, là Nguyễn Kim Hùng (hiện cư ngụ tại
Oklahoma), đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa
cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Đến sáng hôm sau thì
một đám bạn
cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu (hiện định cư tại Minnesota), Thiện
huế và vài anh em nữa tôi không nhớ tên đến bệnh viện đón tôi đi. Các
bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng
tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm
sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.
Lịch
sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Trường Thiếu Sinh
Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu.
Tuy nhiên, trong lòng những người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của các
Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao
giờ phai nhạt. Tổ quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu
Sinh Quân vũ
dũng kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội.
HẾT
CTSQ Nguyễn Anh Dũng và CTSQ Lâm A Sáng
Colorado, ngày 24 tháng 10 năm 2002
(Edited by Bắc Phong Sài Gòn/ K23 Thủ đức)
xin hỏi có ai biết tôi không: LÊ TRUNG THƯỢC
Trả lờiXóaPhù hiệu có 3 mẫu tự T, S, và Q trong vòng tròn là phù hiệu của Trường Thiếu Sinh Quân Cao Nguyên (Pleiku) mà vik5 chỉ huy trưởng cuối cúng là Trung Tá Thiết Giáp Trần Lý Hưng, cũng là một cựu TSQ.
Trả lờiXóa