Đông hải phỉ đồ tràn
ngập biển
Nam dân nộ
khí bốc mù trời
Hoàng sa,
Niềm đau phế phủ
dạ luống trông mong...
Trường
sa,
Nỗi xót
tâm can lòng hằng thôi thúc...
Này lũ giặc Tàu Man
kia,
Chớ ỷ
dân đông lấn lướt, lấy thịt đè người
Chớ ỷ
nước lớn hăm he, đem lời doạ chúng
Ta nói cho
các ngươi biết:
Biển là
máu, Đảo là mắt
Nuí là xương,
Sông là mạch
Máu xương
mắt mạch không thể tách
rời
Huống chi:
Biển của
nước ta có tự kiếp kiếp xa xưa
Đảo của dân ta có từ đời đời thuở
trước
Mới đây các ngươi,
Tự dưng
vẽ đường Lưỡi Bò chín khúc,
rồi rộng miệng ngoa ngôn
Tự dưng
khoanh vùng Hải Đảo hai chòm, rồi ngoác
mồm chiếm hữu
Ăn đàng sóng nói đàng gió,
coi Luật Biển quốc tế chẳng có ra chi
Hăm đàng đông doạ đàng tây,
xem Địa Sử thế giới quả
là đồ bỏ
Xấc xược
gọi thầu khai thác khí đốt, trên thềm lục địa đặc quyền
nước Việt
Nghênh ngang
dong tàu đánh bắt hải sản, trong phần
lãnh hải nguồn lợi dân Nam
Nhiều lần:
Bắt bớ đánh đập chuộc
tiền, bức hại bao ngư phủ
Cướp giựt
hủy hoại đồ nghề, đụng chìm lắm ngư thuyền
Rồi mới đây:
Dựng thành
phố hành chánh trên đảo Phú Lâm tỏ dấu dương
uy
Xây cầu
cảng kỷ nghệ tại đảo Duy Mộng ra điều diệu
võ
Ta nhắc cho các
ngươi biết:
Đừng ỷ chúng hiếp cô
Đừng ỷ mạnh hiếp yếu
Dẫn lại
sử cũ:
Sứ Thần
các ngươi đi Sứ Đại Việt, khi trở về
nước, nỗi sợ chưa tan:
Dĩ hạnh
qui lai thân kiện tại
Mộng hồi
do giác chướng hồn kinh*
Tổ phụ
các ngươi mỗi bận xâm lăng, mỗi ôm đầu máu, niềm nhục hãy
còn:
Chi kim giang
lưu
Chung bất
tuyết sỉ**
Năm 938, Ngô
Quyền:
Bạch Đằng giang sóng
nổi mênh mông
Tướng Hoàng
Tháo thây chìm biệt biệt
Năm 981, Đại Hành
Hoàng Đế:
Bạch Đằng giang giông
tố ào ào
Hầu Nhân
Bảo hồn tan mịt mịt
Năm 1077, Thái
Úy Lý Thường Kiệt:
Bờ sông
Như Nguyệt giáo dựng chập chồng
Quách Quỳ,
Triệu Tiết lui quân bẽn lẽn
Năm 1288, Tiết
Chế Trần Quốc Tuấn:
Bạch Đằng giang chớp
giật sấm rền
Nhận chìm
nghỉm đại quân Thát Đát
Lịch sử
Nguyên Mông còn đẫm máu đỏ, hôi hám từng trang
Chiến trường Đại Việt
vẫn đọng khí hùng, huy hoàng
khắp nước
Tại bến
Vân Đồn Trương Văn Hổ...
hớt hãi cao bay
Trên sông
Bạch Đằng Ô Mã Nhi... nhục nhằn bị bắt
Cửa Hàm
Tử Toa Đô ngõ hẹp cùng đường xiểng
liểng thua binh
Miệt Đông Quan
Thoát Hoan ống đồng trốn chạy ngu ngơ
bại tướng
Năm 1427, Bình Định Vương
Lê Lợi:
Trần Hiệp
sa cơ phải bị tàn vong
Lý Lượng
thất thế cam đành thọ tử
Ải Chi Lăng Liễu
Thăng rơi đầu thiệt mạng tán đởm kinh
tâm
Thành Đông Quan
Vương Thông rục cổ lui binh tan hồn bạt vía
Năm 1789, Quang
Trung Hoàng Đế:
Nhỉ Hà
nghẹn nuốt quân Tàu Tặc
Sĩ Nghị
bôn đào khiếp Mãn Thanh
Sầm Nghi Đống treo
cổ cây Đa
Thượng
Duy Thăng vùi thân đầm Mực
Tôn Dương
Bảo giáo bạc phơi thây
Hứa Thế
Hanh chùy đồng vỡ sọ
Chuyện xưa
chép đủ, rõ rõ ràng ràng;
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ
Hàm Tử quan***
Tích cũ
còn đầy, đây đây đó đó:
Chiết kích
trầm giang
Khô cốt
doanh khâu****
Vạn Kiếp
xác phơi đặc đất
Đống Đa thây chất thành gò
Vậy mà
nay:
Các ngươi
vẫn thói lấn chiếm, thập ác hung tàn
Các ngươi
vẫn mộng xâm lăng, bá quyền bạo ngược
Tất cả
Dân Nam ta, nhắc cho các ngươi biết:
Xưa: Đằng giang tràn
máu đỏ lũ xâm lăng
Tất cả
dân Nam ta, sẽ báo cho các ngươi biết:
Nay: Đông hải
ngập thây sình quân bành
trướng
Biển Đông bao sóng
nổi
Tàu Man bấy
thây chìm
Nói cho các
ngươi rõ,
Nước Nam
ta,
Anh hùng
lớp lớp như sóng cả trên sông
Ngô Vương
Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung...
Nữ kiệt
hàng hàng như hoa hồng giáp Tết
Trưng Nữ
Vương, Triệu Nhụy Kiều, Ấu Triệu,***** Cô Giang,Cô Bắc...
Nên nhớ
rằng,
Biển Đông không
phải ao nhà của các ngươi:
Hãy tôn
trọng Luật Biển quốc tế cho ra nước văn minh lịch lãm
Chớ lật
lộng Địa Sử thế giới kẻo
thành quân man rợ tham lam
Và rồi
Triều sóng
Biển Đông thành sóng dữ Bạch Đằng nhận
chìm thây: phường ăn cướp
Bãi đá Biển Đông thành
cọc nhọn Bạch Đằng đâm thủng tàu: lũ làm
càng
Hoàng Sa
hoá cửa Hàm Tử, chỗ bắt phỉ đồ
Trường
Sa hoá ải Chi Lăng, mồ chôn ngoại tặc
Nay có mấy
dòng gởi tới các ngươi
Lời thật
mất lòng
Minh trưng
sự việc
Để các ngươi biết, hiểu...
liệu chừng...
* Mừng được trở
về còn khỏe mạnh
Trong mơ
âm chướng vẫn ghê hồn.
Trích, Giao
Châu Sứ Hoàn Cảm Sự của Trần Phu, Sứ thần Nhà Nguyên.
Sau khi đi sứ sang Đại Việt đời vua Trần
Nhân Tôn về, hồi ức vớí bài thơ trên. Nội
dung rất sợ binh lực hùng mạnh của ĐV.
** Đến nay sông
nước Bạch Đằng chảy hoài,
Mà nhục
quân thù ( giặc Tàu ) vẫn còn đó
Trích, Bạch Đằng Giang Phú
của Trương Hán Siêu, danh sĩ đời Trần
*** Thơ Thượng
Tướng Trần Quang Khải
****Sông
chìm giáo gãy, Gò đầy xương khô
Trích, Bạch Đằng Giang Phú,
Trương Hán Siêu
*****Ấu
Triệu, tên Lê Thị Đàn, trong Duy Tân hội cụ
P.B.C. Bà đã quyên sinh tại
nhà lao giặc Pháp (
Quãng Trị ) năm 1910
Phú Lâm,
Duy Mộng, thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét