Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012

Những hồi tưởng về ngày Quân Lực 19.06 và Ngày Không quân VNCH 01.07

Tôi là người phi công, tuổi Không Quân của tôi tròm trèm được 5 năm, cái bề dầy thời gian này mà đem so với đàn anh hay với các bậc cao đẳng trong Quân chủng chúng ta, thì thật chẳng nghĩa lý gì! Nhưng quãng đời này, với tôi quý giá vô cùng. Tôi yêu Quân chủng hơn mọi thứ tình yêu mà tôi đã có, và có lẽ, đến cuối cuộc đời này, tôi cũng chỉ có mối tình muôn thuở này mà thôi.
Tôi hiện sống ở thủ phủ của tiểu bang Michigan, là thành phố Lansing. Nơi tôi ở, cũng chẳng có mấy người Không Quân, chúng tôi ít gặp nhau, lại chẳng mấy khi ngồi với nhau ăn uống, tuy vậy, chúng tôi quý nhau và thật sự nghĩ đến nhau như ngày còn chia nhau bầu trời quê nhà năm xưa.
Tôi tài hèn, sức mọn, chuyện văn chương thi phú, đối với tôi là một lãnh vực khó khăn, khó khăn như những cú đáp O-1 (đừng gọi là đầm già, cũng đừng lầm với L-19) chính xác, êm như lá rụng của những ngày còn bay bổng. Tôi xác nhận một lần nữa, là tôi yêu Quân chủng, vì mối tình thiên thu này mà tôi đánh liều viết những hồi tưởng này, về những ngày hoàng kim nhưng thật gian khổ khi trước.

Bạn đọc cũng nên vì mối tình Quân chủng mà đừng chấp trách trình độ văn chương chữ nghĩa của tôi. Còn quý vị ngoài Quân chủng, thì lại càng phải lượng thứ hơn nữa cho tôi về cái chuyện viết lách. Hãy cổ vũ cho cái mối tình mà tôi vẫn còn ôm ấp đến bây giờ.
Xin cứ ví như câu chuyện của tôi sắp viết đây, như cái hot dog bất đắc dĩ phải nuốt vội cho qua bữa cơm đường cháo chợ, giữa buổi cày bừa nơi cõi người ta này.
...--o--...
Lời phi lộ như thế là dài và câu giờ lắm rồi.
Vào khoảng năm 1973, sau những ngày chinh chiến khói lửa ở Quân Khu 2, tôi được thuyên chuyển về Quân Khu 4, nơi nước ngọt, người thơm. Ngày tôi rời phi trường Cù Hanh để đi xuống miền đồng bằng. Hôm ấy bầu trời mùa Hè cao và xanh ngắt, Sư Ðoàn 6 KQ đang nỗ lực tập phi diễn để về Sàigòn chào mừng ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1973. Tôi chuẩn bị trèo lên chiếc C-47, chia tay với xứ sở nắng bụi mưa bùn, chợt một hợp đoàn AD-5 của Phi Ðoàn 530 "low pass" qua phi trường, tôi ngẩn người đứng ngắm, trong lòng đầy thán phục, tiếp theo đó một hợp đoàn O-2, rồi một hợp đoàn U-17 (đừng gọi là máy bay bà già, nghe kém hiểu biết lắm!) thuộc Phi Ðoàn 118 của tôi, cũng low pass qua qua phi trường. Tôi nhảy cỡn lên, miệng hét:
- Trời ơi! Hết sảy, hết sảy ...
Rồi sau đó là hai hợp đoàn UH-1, một của Sơn Dương 235, một của Lạc Long 229, có cả CH-47 từ Phù Cát cũng góp gió. Tôi đứng nhìn mãi, cho đến khi các chiếc máy bay khuất tận cuối chân trời, tôi mới trèo lên chiếc C-47. Thằng bạn cùng khóa với tôi bay Co-Pilot phi vụ này nhăn nhở:
- Ê Dương, U-17 tụi mày bay formation coi cũng đặng quá chớ mày ? ...
- Ðừng cười khi dễ tụi tao. Nói cho mày biết, chưa có loại máy bay nào mà tao yêu bằng nó hết... Tôi nghiêm giọng đáp lại.
- Tại mày điếu được đi Mẽo học bay nên mày yêu U-17 cũng đúng thôi ! Chứ cái thứ này đáp lạng quạng sau đuôi máy bay của tao là tiêu tùng ... Nó cũng nghiêm giọng dũa lại tôi.
- Bay cái thứ gì cũng là Pilot, tao hơn mày ở cái chỗ tao là Pilot chứ không có cái chữ "Co" đàng trước chữ "Pilot" nghe mày ! ... Tôi dõng dạc trả lời nó.
Nó không đáp lại, tay với cái head set chụp vào đầu không thèm nghe hết lời tôi.
Lòng tôi lúc đó buồn khôn xiết khi phải xa rời những đồng đội mà suốt một mùa Hè máu lửa khắp Quân Khu 2, tôi cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn trong cuộc đời bay bổng. Tôi bùi ngùi nhìn xuống phi đạo Cù Hanh chạy qua 2 ngọn đồi, một đầu 09, một đầu 27, nơi tôi đã đập tàu lần đầu tiên trong nghiệp bay bổng. Tuy không được vinh dự bay trong hợp đoàn đầy hào hùng kia, nhưng tôi tự an ủi, ngày Quân Lực năm nay, tôi đã góp sức không ít trong việc gìn giữ Quân Khu 2 mà VC điên cuồng đánh phá suốt cả năm 1972 vừa qua. Tôi ngậm ngùi nhớ lại những anh hùng của chúng tôi như Ð/úy Phạm Văn Thặng, nick name Thặng Fulro, nhớ đến một phi hành đoàn CH-47 mà tôi không nhớ tên đã tử nạn tại phi trường Kontum, trong cuộc di tản đồng bào Thượng ra khỏi vùng giao tranh. Tôi cũng không quên được đỉnh Charlie, nơi anh hùng Nguyễn Ðình Bảo lưu danh muôn đời, cả hình hài 2 Chuẩn Úy Bộ Binh mới ra trường của Sư Ðoàn 23, nằm bình thản trong poncho ở phi trường Cù Hanh, chờ được đưa về Ðại Ðội chung sự. Tôi bồi hồi nghĩ đến những bữa cơm ở cư xá độc thân, với nồi thịt kho nhạt nhẽo, nồi canh rau bắp cải mặn chát mà chúng tôi nấu cho nhau ăn... Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1973 chói lọi qua những chiến tích hào hùng, của không biết bao nhiêu anh hùng vô danh, hoặc hữu danh âm thầm khác nữa. Tôi chia tay với tất cả, để lại những gì còn ngổn ngang, thách đố trong cuộc đời bay bổng, trong cuộc chinh chiến ngút ngàn này, để lại tất cả cho các đồng đội Không Ðoàn Biên Trấn.
Ngày 01 tháng 7 năm ấy, tôi đã có mặt tại Phi Ðoàn 116/Không Ðoàn 74 Chiến Thuật/Sư Ðoàn 4 Không Quân. Buổi sáng, tôi dự lễ chào cờ tại sân Sư Ðoàn 4 Không Quân, sau bài hiệu triệu của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Chủng, tôi cất cánh trực chỉ phi trường Quản Long, thị xã Cà Mau, tỉnh An Xuyên. Vì cái tính lề mề, nên tôi không kịp mua ổ bánh mì thịt ghi sổ của Thượng sĩ Yến, chúng tôi gọi là "chị Yến", dù chị là đàn ông đàng hoàng, chị làm ở Ban Văn Thư Phi Ðoàn 116, chị sợ chúng tôi đem tiền cho các bậc nhi nữ dùng hết nên chị mở một trương mục bánh mì cá, bánh mì thịt, bánh mì xíu mại, cùng đủ mọi thứ chạp phô, tạp lục, có cả dầu gió xanh hiệu song thập để chúng tôi cạo gió cho nhau khi trái nắng trở trời. Tôi là thân chủ trung thành của chị vì tôi đắt đào, toàn đào con nhà giầu, xài tiền như nước. Hụt ăn ổ bánh mì thịt, xuống Cà Mau, tôi chỉ kịp nhận xăng, xong cất cánh trực chỉ tiếp phi trường Năm Căn của Vùng 5 Duyên Hải (xin đừng lầm với Vùng 5 Chiến Thuật!). Nửa tiếng đồng hồ sau, tôi đã ngồi trong Câu Lạc Bộ của Căn Cứ Hải Quân Vùng 5 Duyên Hải, trước bát mì gói có hành ngò, chanh ớt đủ thứ, trừ thịt hay các thứ tương đương!! Không phải vì tôi không tiền, nhưng vì Câu Lạc Bộ này cũng có trương mục các món ăn sáng cho các Hải Quân chiến sĩ cùng cảnh ngộ như tôi, nên đắt hàng hết biết. Ðến muộn mà còn mì gói cũng may mắn lắm rồi. Tôi được đào tạo từ "Khóa Ăn Uống" tại cư xá độc thân của Phi Ðoàn 118 ở Pleiku, nên việc đổ cái bát mì kia vào bụng không khó khăn cho lắm, duy cái cốc cà phê, vị lờ lợ mặn thì thật sự làm cho tôi chán ngán cái kiếp bềnh bồng, cơm đường cháo chợ. Người Hải Quân Ð/Úy Quan sát viên sắp đi bay với tôi trong phi vụ tuần tiễu, an ninh hải phận an ủi:
- Chúng tôi như thế này quen rồi, đôi khi trong các buổi tiệc tùng thịnh soạn, hay ngồi uống cà phê, nghe nhạc cổ điển ở cà phê Hân ở Sàigòn, tôi lại chạnh lòng nhớ cái cốc cà phê này, cùng mấy câu vọng cổ ngô nghê ở đây mới bỏ mẹ chứ lỵ!...
- Chúng tôi cũng vậy thôi Ð/Úy ạ. Trông quần bay áo lưới khiếp vậy chứ, thật ra cũng trâu bò như bao Quân Binh chủng khác vậy. Chẳng hề gì đến người trai khói lửa, chỉ e cho người em nhỏ hậu phương thôi. Nhiều lúc quá cực, tôi cũng "măng phú" cuộc đời, mặc nó đến đâu thì đến...
- Th/Úy trông được trai, lại ăn nói bay bướm thế này, hẳn đào gạt ra không hết ? ...
- Cái mục đào kép của chúng tôi lại càng tệ bạc hơn mọi người Ð/Úy ạ. Thấy chúng tôi hào huê, đào kép vậy chứ, thật ra chẳng xơ múi gì đâu!. Rước đèn cho vui đường phố vậy thôi chứ có được cơm cháo gì!. Không thiếu người trong chúng tôi .. tiền mất, cô độc vẫn cô độc nguyên si. Ðã thế lại còn mang tiếng tùm lum là trai gái lăng nhăng, đĩ tính. Thật sự nhiều khi không qua mặt được mấy nhân vật tốt mã, lại hiền lành như Ð/Úy đây.
- Hà hà .. Th/Úy nói chuyện nghe "măng phú" thật.
Ông cười khoái trá..:
- Hôm nay, chúng mình quanh quẩn mấy cái bờ biển giới nghiêm 24/24 một lát rồi về nghỉ. Vả lại, hôm nay là ngày Không Quân của các anh, tôi còn chai Courvoisier mới tinh, tí nữa mình ngả nó với đồ mồi cây nhà lá vườn ở phòng tôi. Rồi tôi cho anh nghe Lệ Thu hát Serenade de Schubert, có phần đệm dương cầm của Nguyễn Hậu nữa. Vậy được chưa ?.
- Ủa! Sau Ð/Úy lại biết hôm nay là ngày Không Quân chúng tôi?..
- Có gì đâu, lúc nãy, trên tần số UHF, tôi nghe mấy vị trực thăng ngoài Phú Quốc ca cẩm về cái nỗi phải ứng chiến ngoài ấy, không về được Sư Ðoàn, dự cái party nhiều mục hấp dẫn tối nay chào mừng ngày Không Quân.
Tối ấy, tôi cũng không về Cần Thơ để tham dự đêm liên hoan dạ vũ, chào mừng ngày Quân chủng được! Quân Khu sợ VC biết chúng tôi vui chơi, nên có thể chúng sẽ tập kích một số tỉnh xa xôi như An Xuyên chẳng hạn, do vậy, tôi phải overnight ở Cà Mau để tăng phái ứng chiến đêm cho tiểu khu An Xuyên, dù ở đấy đã có sẵn một phi hành đoàn biệt phái dài hạn cho tiểu khu.
Tôi chẳng tiếc cái buổi dạ vũ huy hoàng kia đâu, bởi tôi nhảy nhót trông không giống ai, tôi chỉ tiếc cái việc "coong, xuyên, phình đủ mủn" ở phòng giải trí của cư xá độc thân, tiếc những khi đàn đúm ăn tục, nói phét với các đồng đội, tiếc bữa cơm chiều trong Câu Lạc Bộ Sư Ðoàn, quây quần chung quanh đồng đội, tha hồ ăn nói văng mạng, đùa rỡn, chọc phá thiên hạ. ...
Có thể vì tôi hiện diện ở tiểu khu An Xuyên tối ấy, mà VC đành án binh bất động, không nhúc nhích di chuyển lung tung được! Bù lại, đêm ấy, lần đầu tiên tôi nghe ông ca sĩ Chế Linh hát bài "Ðêm buồn tỉnh lẻ" ở chợ, giữa thị xã Cà Mau, đèn đóm tù mù mà thấm thía cho cuộc đời đi mây về gió của mình.
Tôi vẫn như thế ở mọi nơi, mọi lúc, trong các ngày lễ, ngày Tết, tôi vẫn âm thầm cùng không ít các đồng đội khác nằm chờ cái bất thường để gìn giữ cái bình thường cho mọi người. Ngày Không Quân 1973 trôi qua êm đềm như mọi ngày êm đềm khác. Hôm sau, khi trở về Phi Ðoàn, nghe kể lại màn phi diễn A-37, tôi ngẩn ngơ tiếc nuối. Tôi tự an ủi, ngày Không Quân năm sau khai bệnh ở lại Phi Ðoàn khỏi đi biệt đội, biệt phái lôi thôi, tha hồ mà ngắm phe ta nhào lộn...
Rồi kiếp đi mây về gió lại đưa đẩy tôi rời Phi Ðoàn 116, thuyên chuyển ra Nha Trang. Những chiến tích mà tôi để lại Phi Ðoàn 116 đủ để tôi rửa thù cho cái chết của Th/Úy Liêu Quang Ðiều, Pilot trẻ, đẹp trai, vui nhộn của Phi Ðoàn 116. Ðiều bị bắn rơi ở giữa khu tam giác 3 quận Sầm Giang, Cai Lậy và Cái Bè thuộc tiểu khu Ðịnh Tường, bọn du kích khốn nạn bắt sống được Ðiều, chúng đánh gãy 2 chân của Ðiều, trước khi chặt đầu bêu lên ngọn tre ở Mỹ Phước Tây. Ngày Ðiều đền nợ nước, tôi chưa ra trường, nhưng nghe tin này, tôi nguyền có ngày tôi bắt được bất cứ thằng du kích nào trong cái khu oan nghiệt kia, tôi sẽ cắt tiết nó như cắt tiết một con chó, máu của nó, tôi sẽ tưới trên mộ anh để đền bù cho cái xác không đầu mà gia đình anh cùng chúng tôi nhận lại. Dù chưa thực hiện trọn lời nguyền này, nhưng trận Long Khốt thuộc tiểu khu Kiến Tường, sát biên giới Miên mà tôi cùng tham dự với Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, đập tan mộng xâm lăng của một Công trường lính chính quy VC từ bên này tỉnh Kiến Tường, truy kích chúng sâu vào lãnh thổ của Căm Bốt. Cùng trận đánh ở quận Ba Tri thuộc tiểu khu Kiến Hòa, mà phi hành đoàn chúng tôi cùng với một liên đoàn Ðịa Phương Quân, đánh tan nát cái trung đoàn Ðồng Tháp, có tiếng tập trung nhiều thành phần trộm cắp, đâm cha giết chú ở thành phố, chạy trốn pháp luật vào bưng. Bọn này cũng nổi danh hèn nhát hơn chuột nhắt... Những chiến tích này, tôi âm thầm truy tặng cố Th/Úy Liêu Quang Ðiều, Phi Ðoàn 116/ Không Ðoàn 74 Chiến Thuật/ Sư Ðoàn 4 Không Quân.
Tháng 3 năm 1974, tôi được đổi ra Phi Ðoàn 114/Không Ðoàn 62 CT/Sư Ðoàn 2 KQ Nha Trang. Ngày 01 tháng 7 năm ấy, tôi nằm ở Biệt đội Phù Cát. Bữa cơm chiều tuy đơn sơ mà "đạm bạc", quanh quẩn vẫn là cơm sấy, thịt gà hộp kho với đủ thứ gia vị, tùy hứng của người nấu. Món canh cũng vậy, lại cũng là gà hộp nấu bắp cải! Gặp người anh em vui tính thì mặn như xào, người khó tính thì phải bỏ muối vào cơm trước khi chan canh!
Bạn đọc khó tính có thể thắc mắc là: "Ăn như vậy, thì tiền lương chắc để dành mua vàng?"...
Hỏi như vậy là không biết một tí gì về đời Không Quân. Bữa chiều phải ăn như thế, để bù cho những ngày rong chơi, đào kép, bù cho những lúc cơm gà cá gỏi, sáng phở, trưa bia 33 cho đáng mặt con nhà. Trừ các ông có gia đình, thì mụ vợ đã đếm đi, đếm lại tiền lương rồi, còn gì mà hỏi.
Bữa cơm chiều trôi qua âm thầm nhưng đầm ấm. Ð/Úy An, trưởng biệt đội vừa rửa bát vừa càu nhàu:
- Thằng Vinh này, nói bao nhiêu lần rồi không chừa, nấu canh cho người ăn mà nấu như nấu nước để tắm!.. Lần sau, trước khi nấu, mày hỏi từng đứa một xem đứa nào ăn mấy bát canh thì lấy bát mà đong. Ai đời có mấy người mà nấu canh đầy một cái nắp chụp bom CBU thế này thì có bỏ mẹ người ta không!...
- Tôi có hỏi cẩn thận đấy chứ. Nhưng thằng nào cũng no bụng đói con mắt nên mới ra nông nỗi này... Tr/Úy Vinh hùng hồn đáp lại.
- Vâng ạ! Ông nấu canh gì mà nhạt như nước ốc, heo nó ăn cũng không được chứ nói gì đến tụi này!... Th/Úy Quang cay đắng trả lời.
- Thôi thôi, ngày mai ra mua nước lèo làm canh cho được việc, cãi nhau chỉ tổ cho thiên hạ nó cười... Tiếng ông Ð/Úy Dương, sĩ quan liên lạc điều không ở phi trường Phù Cát từ tầng dưới vừa đi lên vừa nói... Hôm nay, tôi mời các vị đi uống cà phê, nghe nhạc ở khu gia binh cho đỡ buồn được không?
- Trời!... Nghe êm tai quá sức! Mọi người hớn hở đáp lời.
- Nhưng tao nói trước là tao chỉ mời cà phê thôi, còn thuốc lá thì thằng nào hút, thằng ấy đi mua nghe rõ chưa?
- Mày chơi vậy là coi không được rồi... Ð/Úy An vừa nói vừa kéo phẹc mơ tuya áo bay.
- Tụi bay thấy đó, tao mời tụi mày cà phê, thật ra thì tao chỉ uống trà đá chanh đường, thuốc lá tao không biết hút mà phải mua cho tụi bay hút, thì thật tụi mày là cha tao rồi!...
Tôi chặn lời của Ð/Úy Dương, nói:
- Anh Dương à, tôi nói với anh chuyện này nghe qua rồi bỏ. Tôi có thằng bạn cũng tên Dương, cùng khóa, ở cùng Phi Ðoàn. Nó hay rủ tôi uống cà phê mà chẳng bao giờ mua thuốc lá cho tôi hút. Anh biết nó mà? Nó lên bàn thờ rồi đó!
- Mày hù tao hở Dương?... Tao đâu có ngán mấy cái chuyện vặt đó mày. Thôi được, tao mua thuốc cho tụi bay hút, nhưng hút một gói thôi nghe?
Tôi thêm thuốc bồi vào câu chuyện:
- Thú thật với anh chứ, cái tên Dương của tụi mình nghe không hay ho gì đâu! Tháng trước, đào tôi từ Sàigòn ra thăm, không biết thằng mất dạy nào viết thêm cái chữ "vật" vào ngay sau tên tôi, trước cửa phòng, làm con đào khóc sướt mướt mấy ngày!... Anh .. chia sẻ với tôi cái bất hạnh này bằng gói ba số 5 chứ ngượng gì nữa?!
- Hà hà... Thằng này nói chuyện nghe tiếu lâm điếu chịu được... Ð/Úy Dương cười khoái trá. Ô kê, tao chi gói ba số 5... Thật ra thì hôm nay ngày Không Quân tụi mình, thấy tụi mày nằm chèo queo nên tao mới ngu, bỏ tiền ra làm mấy việc phước thiện. Lần sau thì không có tao nghe tụi bay!
Ð/Úy An nghiêm giọng nói:
- Như vậy thì lại càng không được, chẳng lẽ ngày Không Quân mà uống cà phê, thuốc lá vặt thì coi không đẹp mặt Quân chủng tí nào!... Mày tiếc gì với tụi tao vài chai 33 trong mấy ngày này hở Dương?... Không biết mai mốt này, mày còn uống được với tụi tao nữa không?
Ð/Úy Dương trợn mắt nói:
- Trời trời!!... Mày tính chuyện gì nữa đây An?
- Tao lấy thí dụ, ngày mai đây, thằng Dương này cùng tên với mày, nó đi đánh trận Bồng Sơn, lỡ SA 7 ăn nó thì mày còn cơ hội để đãi 33 cho nó nữa không? Vả lại, mấy khi tụi mình hội ngộ ngày Quân chủng này mày?
Tình hình cứ như vậy mà phát triển, không lâu sau đó, chúng tôi cùng nghiêng ngả trong một cái quán ở khu gia binh trong căn cứ Không Quân Phù Cát, mọi chuyện tiền nong đã có Ð/Úy Dương, người Không Quân hào hoa vui tính lo toan!...
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi bị giặc đưa vào tù. Ngày tù về, cuộc sống "hậu tù" này khiến tôi càng ngán ngẫm. Mồ mả của đồng đội tôi bị lũ thú vật, khốn nạn đến tận cùng của khốn nạn, chúng cày bới lên. Doanh trại ngày trước của Quân đội chúng ta được bọn trâu bò này tháo gỡ cẩn thận. Những thức chúng tháo gỡ được, đem đổi thành cái xe đạp, cái máy thu thanh,hay cái đồng hồ xanh xanh đỏ đỏ...
Ngày Quân Lực và ngày Quân Chủng của chúng ta, phôi pha dần trong trí nhớ của tôi, trước cơn bão của cơm áo tiền gạo, của cung cách sống cho ra người giữa bọn thú vật. Vậy mà, quân thù hèn mạt lại nhắc nhớ cái uy dũng của ngày Quân Lực 19 tháng 6 hộ chúng tôi...
Khi tòa thánh Vatican chính thức lấy ngày 19 tháng 6 làm ngày vinh danh các thánh tử đạo của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, lũ cầm đầu Việt cộng la toáng lên là Vatican cố tình chơi chúng. Tại Sàigòn, chúng hốt hoảng tập trung chúng tôi, những người tù cải tạo vừa được trả về với gia đình. Tại các trụ sở công an Phường, chúng đọc lung tung các loại tài liệu, văn kiện, nghị quyết của ai chẳng biết? Ðại khái là Vatican muốn khôi phục lại Quân Lực VNCH, v..v. Nghe vậy, chúng tôi phì cười và chợt hiểu ra rằng, lũ này chết nhát hơn mọi .. con vật chết nhát trên đời này. Tôi nghĩ, chúng đã đào mộ, bới mả anh em đồng đội chúng tôi, nay có lẽ vì sợ các anh em chúng tôi hiện về, bóp cổ, cắt tiết bọn nó. Do vậy, chúng la hoảng lên, khi Vatican chọn một ngày bình thường nào đó để làm ngày kính nhớ các thánh tử đạo VN. Hóa ra, Quân Lực VNCH chúng tôi tuy không còn hiện diện, nhưng cái uy dũng hào hùng ngày trước, khi được nhắc đến, vẫn còn làm cho bọn lãnh đạo của cả một cái đảng tối ưu việt, khi nghe đến, hốt hoảng, sợ đến té đái, vãi phân, cuống cuồng tập trung anh em chúng tôi lại, sau chợt nhớ là Quân Lực VNCH không còn nữa, chúng mới trả anh em chúng tôi về lại với gia đình. Một số người dân thành phố, trước đây bàng quang với chúng tôi, nhờ VC mà họ chợt nhớ là ngày 19 tháng 06 là ngày vinh danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Bao nhiêu năm trôi qua rồi, những mảnh đời như vậy, mãi mãi sống trong tôi, từ trong những ngày tù đầy đen tối, cho đến bây giờ, nơi đất tha hương, hiu quạnh vắng vẻ này, tôi vẫn mộng mị với những khoảnh khắc huy hoàng như thế. Ðồng đội của tôi ngày xưa, và bây giờ, mãi mãi cũng như thế mà thôi. Mãi mãi vẫn đậm đà trong trí tưởng của tôi. Có thể bây giờ, chúng tôi xa nhau về không gian và thời gian, hoặc có thể đã mất biệt nhau rồi! Nhưng chẳng thể nào quên được nhau, chẳng quên được những đoạn đường đời vừa nói trên...
Dù bây giờ, chẳng còn nữa con tàu và bầu trời quê nhà xanh ngát thân yêu năm xưa, trong tôi, vẫn còn mãi những hình ảnh bất diệt này. Trong quãng đời ly hương, lìa tổ quốc hôm nay, bên những cay đắng nhọc nhằn, những hình ảnh này chưa bao giờ ngọt ngào, yêu dấu đến như vậy. Trong bóng hoàng hôn của cuộc đời, tôi chưa nguôi mối tình muôn thuở với Quân chủng và đồng đội, vẫn tương tư những ngày quá khứ, những con người yêu dấu muôn đời kia.
Chắc chắn, khi rời bỏ cuộc đời này, tôi chẳng mang theo được những gì hiện có, nhưng tôi sẽ, và phải mang theo những hình ảnh, những tâm tưởng này. Ðây sẽ là những bằng chứng để tôi xuất trình ra với các giới chức có thẩm quyên ở bên kia thế giới, để xin được tìm gặp lại đồng đội, tìm gặp lại mối tình với Quân chủng, vô cùng yêu dấu nhưng dang dở ở đời này. Tôi cầu xin được như vậy, ngay tự bây giờ, ngay trong lúc này.
Ðời tôi chỉ có hai nghiệp duy nhất mà tôi nặng nợ, đó là bay bổng và đánh giặc. Ngoài hai cái này ra, tôi không còn gì nữa!
Bác Ðẩu Phạm Phòng
Cựu Phi công của các Phi Ðoàn114, 116, 118.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét