Chiến dịch “ bài trừ văn hóa đồi trụy phản động ‘ được rầm rộ phát động tháng 5 năm 1975 trên những đường phố Sài Gòn
1.
“Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra, ông đã để tang cho sách đúng một trăm ngày. “
Những dòng chữ “ nhẹ nhàng “ kết thúc “ Để tang cho sách
“ của nhà văn Khuất Đẩu hẳn để lại một dư vị chẳng lấy gì làm nhẹ nhàng
lắm cho người đọc, nhất là những người đọc đã từng sống qua những ngày
tháng không dễ gì quên được kể từ khi bộ đội miền Bắc cắm lá cờ chiến
thắng trên nóc phủ tổng thống miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tại sao lại phải “ để tang cho sách “ ? Vì “sách của ông tưởng sẽ
sống đến ngàn năm đã bị bức tử một cách oan nghiệt.Khi người ta đội lên
đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu
bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc
mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” thì hơn ai hết ông
hiểu đó là một lời tuyên án tử hình .
“
Nhân vật người Ông của Khuất Đẩu đã chọn một giải pháp thật đẹp, đẹp hơn cả “ lý tưởng của người Cộng sản “ : “ông đã chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự mình đốt sách. Một quyết định cháy lòng.”
Ít nhất, nhân vật của Khuất Đẩu đã bảo tòan được “ khí tiết “ của
sách qua cử chỉ dũng cảm của một viên tướng bại trận, tự sát chết trước
khi để thân xác của mình lọt vào tay kẻ địch.
Trong thực tế, những gì đã xẩy ra ở những đô thị miền Nam sau khi
người anh em cùng máu đỏ da vàng ở phía bên kia rầm rập tiến vào tay
phất cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng ?
Đó là những ngày tháng tủi hổ nhất cho lịch sử Việt nam, khi hàng
ngàn thanh niên sinh viên học sinh của bên thua trận bị chính quyền mới
ra lệnh vào tận những nhà sách, nhà xuất bản, cả những kệ sách tư nhân,
tịch thu tòan bộ sách báo, ấn phẩm, tất cả những gì được in ấn, phát
hành ở miền Nam trước tháng 4 năm 1975 đem ra đốt.
Một cảnh đốt sách thật tang thương tháng 5 năm 1975 ở Sài Gòn
Nhà văn Nguyễn Thụy Long, người chứng kiến tận mắt , đã kể lại :
“ . . . Trời sáng rõ, đèn đường tắt. Cờ bay đỏ phố, đỏ nhà. Những
khẩu hiệu chiến thắng giăng mắc đầy đường, tường nhà, phố chợ. Những em
nhỏ mang băng tay đỏ, áo bà ba, “mốt” mang dép râu, nối vòng tay lớn
nhảy múa bập bẹ hát hỏng rồi làm lại trật tự lòng lề đường. Không còn
bóng dáng những tà áo dài trắng nữ sinh tha thướt nữa. Một số em khác nỗ
lực truy tìm văn hóa đồi trụy. Đám trẻ xộc vào nhà người ta khuân ra
ngoài lề đường từng đống sách báo. Nổi lửa đốt khói lên ngút trời.
Một ông lớn tuổi đầu hói mang kính cận dầy cộm chạy ra la giằng lại cuốn sách đóng bìa da to vĩ đại:
- Các cháu ơi cho bác xin, đây là quyển Bách Khoa Từ điển tiếng Tây. Không phải văn hóa đồi trụy.
Chú nhóc miệng còn hôi sữa giằng lại cuốn sách, ném luôn vào thùng phuy đang bốc lửa:
- Đốt hết, đốt hết, sách là đốt. Lệnh trên như vậy.
Ông già ôm mặt khóc bên lề đường. Tôi quay mặt nhìn đi chỗ khác, tôi biết ông cụ. Giáo sư đại học luật, Vũ Đăng Dung. Tiến sĩ luật công pháp quốc tế. Ông cụ ở đường bên cạnh nhà tôi, đường Đinh Công Tráng, con đường nổi tiếng bán bánh xèo. . . . “
Một ông lớn tuổi đầu hói mang kính cận dầy cộm chạy ra la giằng lại cuốn sách đóng bìa da to vĩ đại:
- Các cháu ơi cho bác xin, đây là quyển Bách Khoa Từ điển tiếng Tây. Không phải văn hóa đồi trụy.
Chú nhóc miệng còn hôi sữa giằng lại cuốn sách, ném luôn vào thùng phuy đang bốc lửa:
- Đốt hết, đốt hết, sách là đốt. Lệnh trên như vậy.
Ông già ôm mặt khóc bên lề đường. Tôi quay mặt nhìn đi chỗ khác, tôi biết ông cụ. Giáo sư đại học luật, Vũ Đăng Dung. Tiến sĩ luật công pháp quốc tế. Ông cụ ở đường bên cạnh nhà tôi, đường Đinh Công Tráng, con đường nổi tiếng bán bánh xèo. . . . “
( Nguyễn Thụy Long – Viết trên gác bút – Hồi Ký )
Ngọn lửa phần thư không chỉ cháy trên đất nước chúng ta những ngày
tháng 4 năm 1975. Trước đó, nó đã bùng lên trên phố phường Hà Nội năm
1954 cũng dưới lá cờ của chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng :
“Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã
đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu
phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’
này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị
của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ
truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục
lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập
trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày,
trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của
bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản
động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập
trường”.
( Hồi Ký của một người Hà Nội- Nguyễn Văn Luận)
Lịch sử còn ghi chép và nguyền rủa cuộc “ phần thư khanh nho “ ( đốt
sách chôn học trò ) của Tần Thủy Hòang xẩy ra từ năm 213 trước Công
Nguyên.
Trong lịch sử thế giới cận đại, người ta vẫn chưa quên cuộc “ tàn sát văn học “ của nhà độc tài Hitler , một kẻ “chưa
tốt nghiệp trung học, là kẻ ghét chữ. Ngay sau khi lên cầm quyền vào
đầu năm 1933, tên trùm phát xít đã lập tức phát động một chiến dịch đốt
sách rầm rộ trên toàn quốc: Kéo dài suốt từ 7/3/1933 ở Dresden cho đến
9/10/1933 ở Rendsburg, “lễ đốt sách” được tiến hành tại hơn 100 thành
phố lớn nhỏ ở Đức với tất cả nghi thức “trọng thể”.Riêng tối 10/5/1933,
đốt sách đồng loạt được thực hiện tại 22 trường đại họctổng hợp của Đức.
Trong đó cuộc đốt sách ở ĐHTH Berlin có tới 70.000 tham gia, dưới sự
giám sát trực tiếp của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, đã thiêu
hủy hàng vạn cuốn sách.
Để thực hiện chiến dịch đốt sách,thuộc hạ của Goebbels lập ra các
“Danh sách đen”, liệt kê các tác giả và tác phẩm“không mang tính Đức”
cần thiêu hủy, trước hết đó là những tác giả theo chủ nghĩa Marx, người
Do Thái, có tư tưởng hòa bình… “Danh sách đen” được lập ở các lĩnh vực
như văn học (127 tác giả); lịch sử (51); nghệ thuật (13 tác giả và công
trình nghiên cứu); chính trị và quốc học (125)… Ngoài ra còn có tôn
giáo, triết học, sư phạm… Trong số này có 15 tác giả được yêu cầu cần
đốt sạch, “không có ngoại lệ”, như nhà triết học Karl Marx và nhà lý
luận Mác-xít Karl Kautsky; nhà văn Heinrich Mann, Erich Kaestner, Erich
Maria Remarque; nhà tâm lý học Sigmund Freud, hay nhà báo Kurt
Tucholsky… Thậm chí sách của nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng bị thiêu
hủy,như nhà vật lý Albert Einstein. Dựa trên các danh mục này, những
cuộc lục soát được tiến hành trên toàn quốc, trước hết là ở các thư
viện, trường học, hiệu sách… để thu hồi và tập trung sách lại đốt trước
công chúng. “
( trích : Tái sinh từ cuộc “ tàn sát văn học “ – Phan Đức – TT&VH )
Khi người ta có thể đốt sách được, thì việc đốt người ắt phải xẩy
đến. Sự kiện hàng ngàn nhà tù ( trại cải tạo ) mọc lên như nấm sau mưa
trên khắp đất nước những ngày ấy đã chứng minh cho điều này. Đó là những
nơi sẽ chôn thây, sẽ hành hạ những thành phần ưu tú nhất của đất nước,
những người góp phần làm cho những quyển sách “ tội phạm “ ra đời, tồn
tại.
Quả là một sự phí phạm “ kinh thiên động địa “.
Nhân vật người Ông của Khuất Đẩu, qua sách vở, đã nhìn thấy trước
những gì sẽ xẩy ra khi đất nước lọt vào tay người Cộng sản, và ông đã
chọn cách hành xử của riêng mình.
Để tang cho sách đúng một trăm ngày, ông chết theo sách.
Để tang cho sách, là để tang cho người. Không chỉ một người (ông). Mà
là cả một thế hệ và những mất mát không cách nào có thể lấy lại được.
Từ những quyển sách , tài sản vô giá của đất nước nay hòan tòan tuyệt
bản, cho đến những chấn thương trong lòng người chủ sở hữu, tác gỉa của
quyển sách, đến nỗi ân hận dày vò trong tâm hồn những người thanh niên
trẻ năm 1975 tham gia vào chiến dịch đốt sách độc ác, vì sợ hãi, vì ngây
thơ không hiểu hết hậu quả việc làm của mình.
2.
Từ bấy đến nay, bao nhiêu nước đã chẩy dưới cầu, và lịch sử đã đi
những bước ngọan mục. Ngọn cờ Mác-lê bách chiến bách thắng năm nào nay
đã rũ nát trong những đống rác của lịch sử vì sự nguyền rủa của những
nạn nhân, của chính những người đã từng bị lừa gạt hy sinh một đời dưới
ngọn cờ độc ác ấy. Những tàn dư của nó phải thay tên đổi họ để tồn tại.
Những người trẻ năm xưa trên đường phố Sài Gòn tay giương cao những biểu
ngữ cổ vũ cho cuộc phần thư , nay đã già lão và tất nhiên cũng đã
trưởng thành để hiểu rõ việc làm của mình ngày ấy. Họ chẳng phải là
người có tội, chỉ chẳng may phải sống ở đất nước những ngày nhiễu nhương
khốn khổ.
Từ những đống tro tàn , tưởng đã nguội lạnh sau ngần ấy năm, những
quyển sách đã hồi sinh. Không một chế độ cầm quyền nào có thể dùng một
nền văn hóa thấp mà thay thế cho nền văn hóa cao hơn, dù đó là chế độ
độc tài Cộng sản. Vì thế, mặc cho kẻ chiến thắng đã từng ra mệnh lệnh
phần thư vẫn còn ở ghế thống trị, những tác phẩm văn hóa văn học miền
Nam đang chứng tỏ giá trị ưu thắng của mình bằng sự tái sinh mạnh mẽ.
Trước hết, nhờ sự nuôi dưỡng của lòng dân. Từ những tủ sách tư nhân được
che giấu bằng mọi phương cách, từ những mánh lới moi móc, tìm kiếm của
người buôn sách cũ, rất nhiều những tác phẩm cũ đã được bảo tồn .* Và
giờ đây, nhờ những phương tiện khoa học kỹ thuật, nhờ Internet, chúng đã
có mặt trên tòan thế giới, kể cả Việt Nam, kể cả miền Bắc , hiện hữu
trong mọi tủ sách gia đình, dưới dạng sách in hay ấn bản điện tử. Những
cái tên tác giả miền Nam trước 1975, dù còn sống hay đã chết, đã trở nên
quen thuộc với nhiều người đọc trẻ sinh sau cuộc chiến ở cả hai miền
đất nước. Những nỗ lực tuyệt vọng của giới cầm quyền hòng bóp nghẹt sự
tái sinh ấy vẫn không thể ngăn chặn nổi sức sống mãnh liệt của những giá
trị văn hóa đích thực, những giá trị vượt hẳn lên trên mọi ý thức hệ
chính trị nhất thời để trở thành kho tàng văn hóa của dân tộc.
Năm 2008, ở Đức, trung tâm Moses Mendelssohn thuộc trường đại học
Postdam đã thành lập “ Thư Viện những quyển sách bị đốt “ nhằm sưu tập,
in ấn , phát hành trên tòan nước Đức những tác phẩm văn hóa giá trị đã
bị thiêu hủy bời chế độc Phát Xít Hitler năm 1933. Ngòai sự ủng hộ tài
chánh của nhiều quỹ, nhiều cơ quan tư nhân, trung tâm Moses Mendelssohn
còn nhận được sự tài trợ chính thức từ chính phủ Đức với ngân khỏan hơn
hai triệu Euros.
“ Thư viện những quyển sách bị đốt “ sau cuộc phần thư năm 1954 ở
miền Bắc, năm 1975 ở miền Nam, tuy không được chính thức thành lập và
thực hiện, nhưng trong thực tế, nó đã tồn tại từ nhiều năm nay, và mỗi
ngày đang trở nên lớn mạnh. Ngày nay, người đọc ở khắp nơi trên thế
giới, kể cả ở Việt Nam, sẽ không khó khăn gì khi muốn sưu tập tòan bộ
những tác phẩm của Tự Lực Văn Đòan, của những nhà văn tiền chiến ( dù
nhiều tác giả sinh sống ở miền Bắc trước 1975 đã bị buộc phải chối bỏ
chính tác phẩm của mình ), những tác phẩm giá trị và nổi bật của miền
Nam trước 1975 phong phú ở mọi thể lọai, trường phái . . . Hàng trăm
những thư viện sách cung cấp miễn phí cho người đọc hiện hữu trong thế
giới ảo, đa dạng từ đầu sách , nội dung sách cho đến hình thức thể hiện
sách để bất cứ người đọc nào với những phần mềm máy tính khác nhau, nếu
muốn, cũng có thể mở ra đọc, hoặc đem về máy nhà cất giữ dành đọc khi
thuận tiện.
Chưa bao giờ người thụ hưởng văn hóa lại được có cơ hội lựa chọn
phong phú như hiện nay. Chưa bao giờ cuộc cạnh tranh giữa cái giá trị và
không giá trị trong văn hóa lại sòng phẳng như hiện nay. Trong bối cảnh
đó, sự tái sinh của văn hóa miền Nam, của những quyển sách nạn nhân của
cuộc phần thư đầy xấu hổ năm nào trên đất nước chúng ta, là điều tất
nhiên mà không một thế lực nào có thể ngăn cản hay làm chậm lại.
Và chúng ta đã có thể làm lễ mãn tang cho những tác giả của những tác
phẩm bị đốt , nay chẳng may không còn sống để nhìn thấy những đứa con
của mình sống lại. Tôi tin rằng linh hồn họ sẽ thanh thản siêu thóat .
3.
Dầu vậy, tôi vẫn không quên những hũ tro sách của nhân vật người Ông trong “ Để tang cho sách
“ của Khuất Đẩu. Tôi cho rằng, nếu nhân vật người Ông sống tới ngày hôm
nay, được chứng kiến sự hồi sinh của những quyển sách mà ông nâng niu
như máu thịt, thì hẳn ông cũng vẫn chưa hài lòng trọn vẹn. Bởi vì, những
quyển sách phải cụ thể là những trang giấy thơm mùi mực, hay thơm mùi
cũ kỹ của thời gian, phải sờ được, phải cầm được, phải được trân trọng
khẽ khàng xếp chúng vào tủ để ngày ngày ra vô nhìn ngắm, chiêm ngưỡng.
Có thế mới thực sự là sách. Có thế thì kẻ hậu sinh vài chục năm sau, vài
trăm năm sau, cầm tới quyển sách ố vàng vì thời gian, những mép trang
đã quăn lại, biến màu vì dấu tay tiền nhân, mới cảm nhận được trọn vẹn
giá trị gia tài quý báu mình đang thừa hưởng.
Có thế, sách mới thực sự như người.
Còn như, những trang sách điện tử . . .
Vì thế, hồn sách vẫn còn trong những hũ tro với bài vị là tờ giấy ghi
tên sách trong ngăn tủ mà 30 năm sau vẫn còn được nhang khói mỗi khi
giỗ chạp.
Hồn người (ông ) thì có thể siêu thóat, nhưng hồn sách có lẽ vẫn mãi
còn “ lãng đãng “ quấn quýt. Cho đến ngày những kẻ ra bản án tử hình
sách năm nào đền tội nơi chín tầng địa ngục của Diêm Vương.
T.Vấn
28 tháng 10 năm 2011
Chú thích :
Trong những lần về thăm nhà, tôi để dành rất nhiều thời gian đi dạo
những khu sách cũ của Sài Gòn. Mỗi lần như vậy, tôi đều tìm được một
quyển sách cũ nào đó trước 1975. Khi thì một tác phẩm của Phạm Công
Thiện long bìa, thiếu trang, khi thì những tờ báo vàng ố, lấm lem màu
mực xanh học trò, có khi lại là một quyển sách đóng bìa da trang trọng
với dấu tích thuộc về một tủ sách tư nhân mà người chủ phải là một kẻ mê
sách và yêu sách như nhân vật của nhà văn Khuất Đẩu. Mặc dù, có quyển
sách tôi đã từng được đọc lại nội dung, đã có mặt trong tủ sách “ điện
tử “ mà tôi sưu tập , nhưng cảm giác lúc đó là tôi muốn “ làm chủ “
quyển sách cũ ấy với đầy đủ những dấu vết thời gian , vì nó là hiện thân
của chính tôi, của sự sống sót sau một cuộc đảo điên của lịch sử. Người
bán sách cũ , mang bản năng bẩm sinh của kẻ sinh ra để làm thương mại,
đã căn cứ vào vẻ mặt của tôi vào lúc ấy để ra giá quyển sách. Tất nhiên,
có đắt cách mấy cũng không ngăn được tôi thỏa mãn ý muốn của mình.
Nhưng kỷ niệm về sách báo cũ của tôi đáng nhớ nhất là lần mới đây về
thăm nhà. Anh bạn nhạc sĩ Trần Lê Việt của tôi, có mấy người em gái vẫn
còn sinh sống ở Sài Gòn. Họ đã đọc bài viết “ Sài Gòn và những trang
sách cũ “ của tôi nói đến cuộc viếng thăm khu bán sách cũ của lần về VN
trước đây nhiều năm. Khi tôi ghé thăm với tư cách một người bạn lâu năm
của gia đình, mấy chị em đã bàn nhau và quyết định “ gởi biếu “ tôi gần
100 số báo Tuổi Ngọc mà họ đã tích lũy từ thuở còn làm học trò mắt sáng
môi tươi. Đây là tài sản quý giá , chứng nhân của một thời tuổi trẻ đẹp
đẽ, mấy chị em đã tìm đủ mọi cách cất giấu , nhất là trong những ngày
tháng 5 năm 1975 của chiến dịch bài trừ, thiêu hủy sách báo “ phản động,
đồi trụy “ mà nhà cầm quyền mới phát động. Đó là một việc làm vô cùng
nguy hiểm, vì bản thân họ lúc ấy là sinh viên , học sinh, đã không chịu
tham gia tích cực vào chiến dịch do phường khóm điều động, lại còn tìm
cách cất giấu , bao che cho “ kẻ phạm pháp “. Ngần ấy năm, những tờ báo
Tuổi Ngọc “ vô tội “ đã sống sót qua cuộc phần thư, trú ngụ an tòan dưới
mái nhà những nữ chủ nhân đáng yêu. Và nay, những nữ chủ nhân ấy muốn
chúng được vĩnh viễn “ an tòan “ nơi miền đất tự do, trong bàn tay chăm
sóc của kẻ mà họ đã “ chọn mặt gởi vàng “.
Tôi đem tài sản quý giá một đời ấy của mấy cô em gái người bạn qua
bên Mỹ với sự trân trọng của một người biết mình đang mang trong mình
trọng trách bảo tòan những kỷ niệm không chỉ của mấy chị em, mà còn là
của cả một thế hệ thanh niên nam nữ Việt Nam may mắn được sống trọn vẹn
những ngây thơ lãng mạn của tuổi trẻ, chứ không phải bị nhồi nhét những
thứ ý thức hệ giai cấp chỉ biết đến thù hận như những người bạn cùng
trang lứa, cùng là người Việt Nam máu đỏ da vàng, nhưng chẳng may sinh
ra và lớn lên ở miền Bắc .
Tôi dùng những dòng ghi chú này như một lời cám ơn chính thức gởi đến
những cô em gái người bạn , những nữ chủ nhân đáng yêu của hàng trăm số
báo Tuổi Ngọc quý gía, mà mỗi lần ngồi lần giở chúng, tôi như được sống
lại khỏang đời đẹp đẽ ấy thêm một lần nữa, nhiều lần nữa. T.Vấn.
Nhân đây, tôi cũng muốn trang trọng giới thiệu trang Blog của người
rất trẻ tuổi hiện sinh sống ở Việt Nam. Anh có một đam mê bỏng cháy là
đi tìm lại những tác phẩm xuất bản trước 1975 ở miền Nam, dù thời gian
ấy, anh chưa ra đời. Tất cả những gì anh tìm thấy, đều được anh chia sẻ
với tất cả mọi ngưởi trên trang Blog bằng những ảnh chụp, hoặc phóng
ảnh, kể cả việc anh chịu khó đánh máy lại nội dung để đưa lên mạng và
kèm theo những nhận xét rất thông minh và đáng yêu. Khi tôi hỏi động cơ
nào khiến cháu bỏ công sức làm công việc này, anh trả lời vì cháu không
muốn những di sản văn hóa của đất nước bị mai một. Và đây là địa chỉ
trang Blog của Nguyễn Trường Trung Huy : http://huyvespa.multiply.com/journal
Dưới đây là vài hình ảnh tôi bắt gặp trên Blog của Trung Huy :
©T.Vấn 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét