(Câu chuyện cảm động có thực nói
về tính nhân bản đầy tình người của
người lính miền Nam được thể hiện
rõ nét qua bài viết của tác giả Phạm Tín An Ninh,
một sĩ quan QLVNCH và là một trong những
“người tù cải tạo” bị giam ở
miền Bắc sau 1975, tình cảm chân thật của Thượng
úy Nguyễn Văn Thà, một sĩ quan thương binh
bộ đội miền Bắc. Bài viết này được
chuyển lên các hệ thống internet toàn cầu,
được đọc trên các room paltalk với giọng
đọc nghẹn ngào của các em thuộc thế hệ
Việt Nam chưa hay không biết chiến tranh là gì. Chúng
tôi xin được chạy đăng bài viết
“Ở cuối hai con đường” vì nó phù
hợp với luận điểm và nội dung của tác
phẩm “Máu và nước mắt trên lưng Trường
Sơn”: Cuộc chiến đấu tự vệ chính
nghĩa và nhân bản của miền Nam Việt Nam so
với cuộc chiến tranh xâm lược của cộng
sản Việt Nam từ miền Bắc.
Cám ơn anh Phạm Tín An Ninh đã cho chúng ta
một lời nói công đạo chí tình, một câu chuyện
vô cùng xúc tích và cảm động./
Hải Triều.
Hải Triều.
Ở Cuối Hai Con Ðường
LGT:
Phạm Tín An Ninh là một nhà văn quân đội, tuy
mới xuất hiện trên văn đàn hải ngoại,
nhưng những truyện ông sáng tác đã nhanh chóng ngự
trị trong tâm hồn đông đảo độc giả
nhờ ở văn phong giản dị, nội dung trung
thực, và đặc biệt hơn cả, là tấm lòng
đôn hậu đầy nhân ái của ông được
thấm nhuần qua từng câu, từng chữ, từng
tình tiết, nhân vật, sự kiện... "Ở
Cuối Hai Con Ðường" là tác phẩm đầu tay
của ông, trong đó gồm 16 truyện ngắn, mỗi
truyện phản ảnh một góc độ trung thực
của cuộc đời, nhưng tất cả
đều có giá trị cảm hóa sâu sắc, để lại
trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ,
nhiều thao thức, để rồi cuối cùng, người
đọc luôn thầm nguyện với lòng, sẽ cố
gắng sống tốt lành hơn, thuỷ chung hơn, nhân
ái hơn.
Ðây
là một câu truyện hoàn toàn có thật giữa tác giả,
một người tù cải tạo tại trại 6
Nghĩa Lộ; và người quản giáo tên Thà, từng là
bộ đội thuộc trung đoàn xe tăng của
Sư 320, bị cụt tay trong trận đánh ở Trung
Nghĩa, KonTum vào đầu mùa hè 1972, mà chính tác giả
cũng tham dự. Sau khi bị thương, bị bắt
làm tù binh, được những người lính VNCH
bảo vệ, chăm sóc và chữa trị tử tế cho
đến khi được trao trả tù binh trở
về Bắc, quản giáo Thà đã được cảm
hóa, trở nên một người tốt bụng, yêu
thương tù cải tạo, luôn tìm mọi cách giúp
đỡ tù. Biết ơn quản giáo Thà, tác giả, sau
khi vượt biên thành công, định cư tại Na Uy,
đã tìm mọi cách giúp đỡ quản
giáo Thà và hai người con của ông, khi họ chẳng
may khốn đốn tại Ba Lan.
Trên
phương diện nghệ thuật, quản giáo Thà không
phải là nhân vật điển hình, đại diện
cho hàng trăm ngàn quản giáo VC tàn nhẫn, độc ác,
thủ đoạn, phi nhân tính. Hơn nữa lòng tốt
của quản giáo Thà được thể hiện khá can
đảm, bất chấp mạng lưới ăng ten và
hệ thống quản giáo, vệ binh dầy đặc
trong các trại tù cải tạo. Hơn thế nữa, lòng
tốt cùng niềm thống hận chủ nghĩa CS
của quản giáo Thà không phải chỉ xuất hiện
chốc lát, trong giây phút thức tỉnh của tình
người, mà được trải dài theo thời gian,
cho đến khi ông nhắm mắt. Tuy nhiên, giá trị
cuả câu chuyện không phải là giá trị điển
hình mà chính là giá trị cá biệt. Nhà văn Phạm Tín An
Ninh đã kể lại trường hợp cá biệt
quản giáo Thà vì, thứ nhất, đây là chuyện hoàn
toàn có thật mà tác giả đã trải qua; và thứ hai,
qua câu chuyện tình nghĩa giăng mắc xuyên suốt
thời gian mấy chục năm, tác giả đã thành công
khi đề cao được giá trị nhân quả
của lòng nhân ái, của tình người. Chính giá trị to
lớn này đã cảm hóa được người
đọc, ngay cả những người đang chìm
đắm trong u mê lọc lừa của chủ nghĩa
cộng sản, miễn sao họ còn chút ít lương tâm
và sự sáng suốt tối thiểu của một con
người.
Tất
nhiên, một số lái buôn văn nghệ thân cộng,
một số trí thức vô lương tâm nằm vùng...
đã vội vã bóp méo giá trị cảm hóa của tác
phẩm nhằm dương lên một bẫy sập, khi
họ rêu rao tuyên truyền, lòng nhân ái cá biệt của
quản giáo Thà sẽ trở thành phổ quát cho tất
cả những người cộng sản hiện nay,
nếu người Việt hải ngoại biết
một lòng một dạ đối xử tử tế,
nhân ái chan hoà với những người cộng sản.
Rõ ràng, đây là âm mưu nguy hiểm nhằm hóa giải
sức mạnh đấu tranh của người Việt
hải ngoại, nhưng chắc chắn âm mưu đó
bất thành. Vì càng hiểu rõ giá trị nhân đạo cao
quý của câu truyện, chúng ta càng nhìn rõ bản chất phi
nhân của chủ nghĩa cộng sản và con
người cộng sản. Bằng chứng, trong số
hàng trăm ngàn tù binh VC được quân đội và
chính phủ VNCH đối xử một cách tử tế
trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, thử
hỏi có mấy người được cảm hóa
như quản giáo Thà? Câu trả lời chắc chắn là
hầu như không có, vì cho tới nay, chúng ta chưa thấy
bất cứ tài liệu, sách vở hay chuyện kể nào
đề cập đến một quản giáo có lòng
tốt tương tự như quản giáo Thà.
THẰNG MÕ (SAN JOSE)
****************************** ****************************** ****************************
Ở
CUỐI HAI CON ĐƯỜNG
Những
năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi
được chuyển đi khá nhiều trại. Từ
Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi
mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa
đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Ðây là
một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới
gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn
tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới
sườn đồi.
Sau
đó, tôi được chuyển về trại 6 Nghĩa
Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng
Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30
tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy
cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi
vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe
đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày
nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ
giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một
cái lán lợp bằng nứa, nền đất, ngồi
chờ "đồng chí cán bộ quản giáo"
đến tiếp nhận.
Vài
phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào
lán. Ðiều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta
chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là
tay áo bằng kaki Nam Ðịnh, buông thỏng xuống và
phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không
khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ
trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: Ðây
mới đích thực là nợ máu đây, biết trả
như thế nào cho đủ?
Nhưng
bất ngờ, người cán bộ quản giáo
đến trước chúng tôi, miệng nở nụ
cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt
thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng
một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh
quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi
"báo cáo" một số nội quy, yêu cầu của
Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng
một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi
người một tờ giấy để làm bản "lý
lịch trích ngang".
Tôi
đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba
đời với bao nhiêu thứ "tội"
dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng
từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến
cả trăm lần, ngay cả những lần bị
đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh
quản giáo hỏi:
- Trong
này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi
im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Anh
ở trung đoàn mấy?
-
Trung Ðoàn 44.
- Vậy
anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum
đầu mùa hè 1972?
- Vâng,
có ạ.
Anh
quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa,
chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn
qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt
đều dồn về phía tôi. Ðể lấy lại bình
tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Tôi
ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh
quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng
tiếp tục:
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau
đó cán bộ được trao trả? Tôi hỏi.
- Tôi
bị thương nặng lắm, do chính đạn trong
xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về
quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn
sống và được trao trả tù binh đợt
cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo
đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên
Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào
một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc
cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao
động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh
quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em.
Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình
những chuyện vui buồn đời lính, thăm
hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố
gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm
điều gì sai phạm để không phải nghe mấy
ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa
đông, không trồng trọt được, nên khẩu
phần ăn của một người tù chỉ có
một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc
lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn,
một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên
nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men
hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều
người đứng không vững.
Một
chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương
mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù
chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt
bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía
trước, thấp thoáng một người mang áo tơi
(loại áo mưa kết bắng lá cây) chạy lúp xúp
từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi
trời tối.
Ðêm
đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt
với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh
đội trưởng:
- Tôi để một giỏ cá sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
- Tôi để một giỏ cá sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây
giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay,
đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là
quản giáo Thà. Ai cũng cảm động. Biết là anh
em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài,
một buổi sáng đầu mùa xuân , quản giáo Thà
đưa cả đội 50 người tù lên một
đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã
nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh
chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn
vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng
Cầm" để luộc sắn mà không ai phát hiện
có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng
nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc
sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng
gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị
đi về", anh em tức khắc giấu hết
"tang vật" xuống một cái hố đã đào
sẵn.
Dường
như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi
được no - dù chỉ là no sắn. Không biết
tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo
Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù
của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta
rừng?
Mỗi
lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc,
anh Thà bảo nhỏ:
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào
một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay,
nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em.
Số tiền lương vừa lãnh được, anh
mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh
em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật
nhiều với anh em:
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh
cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng
nói của anh nghẹn ngào.
- Khi
về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy
anh không? - Một anh tù hỏi.
- Ngay
sau khi được trao trả, tôi phải vất hết
thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố giấu
mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ
khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi.
Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi
được học tập hơn một tháng, làm
kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác
của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói
điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng
thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi
cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay.
Thời
gian vàng son của năm mươi người tù
đội 4 trại 6 Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài
không quá sáu tháng.
Một
buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên
thung lũng trại tù, một người đạp chiếc
xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe
đèo theo một cái rương bằng gỗ và một
túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận
ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm
mươi người tù vừa mới thức dậy,
còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà
không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa
lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước
cổng trại.
***
Chiếc
thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt
biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù
ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải
phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may
mắn được một chiếc tàu chuyên chở
dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên
đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai
ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường.
Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy
thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn
sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để
được chuyển đến trại tị nạn Singapore,
chúng tôi quá xúc động không ai cầm được
nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn
đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai
nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy
từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày
sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo
và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo
lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc
động vừa đau đớn. Nỗi đau của
một người vừa mới bị anh em một nhà
hành hạ, đuổi xô đến bước
đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ
để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại
được những kẻ xa lạ không cùng ngôn
ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu
thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là
nơi tạm gởi phần đời còn lại của
mình.
Bốn
anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào,
được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày
gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng
khốn khổ trong tù. Ðặc biệt khi nhắc tới quản
giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ
đến một người không cùng chiến tuyến mà
còn có được tấm lòng. Sau lần bị
"hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa
Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc
chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau
hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong
ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây,
tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng
nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau
này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học
về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ
học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này
lại được nhận vào một công ty lớn và
sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Ðộ.
Bẵng
đi vài năm, bất ngờ một hôm, anh gọi
điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và
đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là
bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là
một người con gái Việt Nam. Anh giới thiệu
với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô
gái tên Ðoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi
ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng
khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên
tường, mang quân phục và cấp bậc của quân
đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng
tôi cũng niềm nở, đùa cợt cho cô
được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân
với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn
đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở
Ðông Ðức, rồi Liên Xô, cô được sang thực
tập tại Ấn Ðộ. Chính tại đây cô có dịp
gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có
chồng và một đứa con trai. Người chồng trước
cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán
bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau
thời gian thực tập ở Ấn Ðộ trở
về, cô được bạn bè và người thân cho
biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ
một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói
phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói
những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa
giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp
chương trình Tiến sĩ tại một đại
học ở Ðông Ðức.
Sau
ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân
Ðức phá sập, nước CHND Ðức (Ðông Ðức) bỗng
chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách
trốn sang Tây Ðức. Qua một thời gian hết
sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được
với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh
sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng
viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du
học ở nhiều nước thuộc khối cộng
sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ
cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho biết, bố của
cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại
Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự
tan vỡ của toàn khối cộng sản Ðông Âu, ông xót xa
nhìn ra được một điều gì đó. Trở
về Việt Nam,
ông không còn được nhà nước Cộng sản
trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày
nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau
một thời gian, được cấp quốc tịch
Nauy, cô Ðoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc
biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân
tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc
cô Ðoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ dến anh
quản giáo Nguyễn văn Thà thưở trước. Tôi
cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một
số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Ðoan về
Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để
tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu
năm sống trong đám bùn lầy nước
đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm
lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không
biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn
tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "Ông Nguyễn
văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là
thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo
số 6 Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Ðoan vui vẻ
nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách
để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho
biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại
bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một
tháng sau, cô Ðoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là
ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong
danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục
viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ
Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai
biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo
địa phương đăng lời nhắn tin, trong
đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho
biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô
nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì
chỉ một ít người ở thành phố có báo
đọc.
Thời
gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con
cái, để kịp hội nhập vào đời sống
trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc
đến chuyện anh Thà.
Bỗng
một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện
thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng
hồ, hơn 2 giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt
độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi
ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì
phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc
ống nghe, đầu giây bên kia là giọng một cô gái,
nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả,
nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô
cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với
đầy đủ họ và tên.
- Xin
lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ,
cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi
im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không
nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái
lên tiếng:
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông
Thà? Nguyễn văn Thà! Bác nhớ, nhưng cô là gì của
ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
- Dạ,
ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một
đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ.
Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu
cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu
khỏi tốn tiền.
Tôi
gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và
em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng,
chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà,
kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng
niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo
cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính
quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân
chủ ở Ðông Âu, chị em cô cùng hầu hết những
người được chính quyền Việt Nam
gởi sang lao động, đã không về nước,
trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không
tìm được việc làm chính thức. Hầu hết
làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành
ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp
bóc hoặc tống tiền chính những người
đồng hương, đồng cảnh. Số
người Việt này trở thành mối bận tâm không
nhỏ cho những chính quyền mới ở các
nước Ðông Âu.
Hai
chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố
Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác,
mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm
được một ít, chưa kịp gởi về giúp
gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu
em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát
bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị
mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy
cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị
truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà
gọi điện thoại cho tôi.
- Bây
giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu
đang trốn ở nhà một người bạn,
nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết
phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá
thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu
bảo cháu trong trường hợp rất cần
thiết mới gọi cho bác.
- Ba
cháu bây giờ làm gì?
- Ông
bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến
mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ
nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn
ở lại đây để kiếm tiền gởi
về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác
ạ.
Tôi
ghi số điện thoại, địa chỉ
người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai
của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn
sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi
nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew
Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới
đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi.
Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy
môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội
cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ
Công Ðoàn Ðoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại
lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một
chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm
người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Ðức.
Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh
được chính phủ Nauy đặc biệt nhận
cho tị nạn chính trị.
Anh
và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có
một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở
Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, tình hình
chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công
Ðoàn Ðoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã
thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm
Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân
chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của
tôi, được mời về nước để
giữ mọât chức vụ khá lớn trong ngành cảnh
sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh
gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể
đủ thứ chuyện về xứ sở của anh,
về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan
bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc
nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời
vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với
gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan
của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng
hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất
vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên
tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi
ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách).
Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp
được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói
chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước
sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã
dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những
điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối
cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh
quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và
hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện
đang ở tại đây, ngay trên đất nước
Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi
đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi
về việc này.
Anh
đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Ðưa
Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm
thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ
trại tù về.
Trước
khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một
đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu
cho hai cháu một số tiền để tạm sinh
sống và chuyển về Việt Nam biếu anh Thà, bố
hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi
trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh
chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ
tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn
một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: Hai
chị em Hà đã được Piwko bảo trợ,
được cấp giấy tờ chính thức cư trú
tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn
ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm.
Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo
học tại một trường trung học.
***
"Các Anh thân quí! Khi ngồi
viết những dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ
mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian
tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà
không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Ðọc
thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với
số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc
đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm
tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của
Các-Mác: Chỉ có loài súc vật mới quay lưng
trước cảnh khốn khổ của đồng
loại. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác,
những nước một thời lấy chủ nghĩa
Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng
đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy
Mác làm bức bình phong để che đậy những
mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của
Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Ðiều
tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã
luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác. Chúng
tôi mừng cho các anh đã đưa được gia
đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết, một
người phải bỏ quê hương mà đi, còn
đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi,
vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành
khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm
được một chút tương lai, giá trị nào
đó của kiếp con người. Phần tôi, sau khi
bị kiểm điểm nặng nề ở trại
Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương
Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung
Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi
được bố trí một công tác lặt vặt
ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị
phục viên về nhà, tiền phụ cấp không
đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay
mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia
đình. Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng,
nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà
gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới
còn sống được đến hôm nay. Biết
trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ
khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về
lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ
ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này
biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các
anh đây. Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối
đời một con người, tôi nghiệm rõ
được một điều: Chỉ có cái tình con
người với nhau mới thực sự quí giá và
tồn tại mãi với thời gian. Những chế
độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng
chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Ðôi khi
che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã
trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn
khổ cả nhân gian..."
Không ngờ
lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng
chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua
đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại, khi
hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy
chương, anh được cấp trong thời
chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh
thầm thì: Xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau
thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây
biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa
những người anh em cùng một mẹ, không biết
sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
Phạm Tín An Ninh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét