Con Đường Mới, Con Đường của Tiến
Bộ
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn
Trích trong: CUỘC CÁCH MẠNG NHÂN VỊ
Hội Người Việt Quốc Gia – Đặc San 2007 - từ trang 132 đến 160
(Cước chú: các câu văn, chữ tô đen đậm là của chính tác giả. Còn các màu khác là của người đánh máy lại từ sách)
Ông
Ngô Đình Diệm đã đi vào lịch sử Việt Nam với tư cách là vị Tổng Thống
dân cử đầu tiên của đệ Nhất Cộng Hòa. Một nhà lãnh đạo với một viễn
kiến rõ rệt và độc đáo về một mô hình phát triển xã hội Việt Nam thời
hậu thuộc địa. Trong một bài điểm sách, Giáo Sư Sử Gia Edward Miller
viết:
“Ngô
Đình Diệm là mộ người có hoài bão. Với tư cách là người lãnh đạo Miền
Nam từ 1954 đến 1963, Diệm mong muốn trở thành nhà lãnh đạo hàng đầu
trong việc xây dựng chính quyền quốc gia, Ông cương quyết tìm ra một
đường lối khác biệt với con đường mà Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt
Nam đang theo
đuổi” (2003)
Và Sử Gia Henry Fairbanks đã tóm tắt sự thậ lịch sử nầy bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tựa đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal, như sau:
“Ông
Diệm tìm kiếm và khôi phục những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho
giải pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những
học thuyết ngoại lai … Dù sao
đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế
giới nầy đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng
những kẻ đeo đuổi một lý tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện
một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của
Á Châu và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục
vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ
Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học
thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng
giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai để phục vụ
cho lợi ích chung: công bằng với người nầy là tự do của kẻ khác, cũng
như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa
Cá Nhân” (21-9-1962, tr 516)
Và trong buổi lễ nhậm chức Thủ Tướng váo tháng 7 năm 1954, với lời lẽ tràn đầy hy vọng Ông Ngô Đình Diệm đã long trọng xác
nhận và trấn an dân chúng:
“Dân
tộc Việt Nam đã bị lạm dụng từ lâu, nay đang tìm lối đi, một đường lối
chắc chắn dẫn họ đạt tới những lý tưởng nồng nhiệt khát khao từ lâu. Tôi
cương quyết vạch đường lối ấy cho dân tộc, bất chấp mọi chông gai gain
khổ” (1955, Q.I, tr11)
Viễn kiến ấy, đường lối ấy, chính là con đường Nhân Vị, là chủ thuyế chính trị khai sinh ra nên Cộng Hòa 1955-1963 tại Miền Nam Việt Nam và là kim chỉ nam hướng dẫn cuộc cách mạng quốc gia, phát triển đất nước. Tuy Chủ Thuyết Nhân Vị đã trực tiếp ảnh hưởng đến sự an nguy của hàng chục triễu người, nhưng mãi đến nay vẫn chưa được lịch sử đánh giá đúng mức vai trò của nó. Bài viết nầy sẽ dành riêng cho việc tìm hiểu về Chủ Nghĩa Nhân Vị như là một vấn đề lịch sử còn tồn đọng của thế kỷ vừa qua.
I- Chủ Nghĩa Nhân Vị.
Viễn kiến ấy, đường lối ấy, chính là con đường Nhân Vị, là chủ thuyế chính trị khai sinh ra nên Cộng Hòa 1955-1963 tại Miền Nam Việt Nam và là kim chỉ nam hướng dẫn cuộc cách mạng quốc gia, phát triển đất nước. Tuy Chủ Thuyết Nhân Vị đã trực tiếp ảnh hưởng đến sự an nguy của hàng chục triễu người, nhưng mãi đến nay vẫn chưa được lịch sử đánh giá đúng mức vai trò của nó. Bài viết nầy sẽ dành riêng cho việc tìm hiểu về Chủ Nghĩa Nhân Vị như là một vấn đề lịch sử còn tồn đọng của thế kỷ vừa qua.
I- Chủ Nghĩa Nhân Vị.
A-
Chủ Nghĩa Nhân Vị là gì?
Theo Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh thì NHÂN (**) là Người và NHÂN (**) còn có nghĩa là lòng thương người, tình yêu (tr.60); VỊ có nghĩa là địa vị, hay chỗ đứng (tr.547) Theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu thì NHÂN (**) có nghĩa là giống khôn nhất động vật (tr.14) và NHÂN (**) có nghĩa là đạo lý làm người phải thế mới là người. Còn có nghĩa là yêu người không vì lợi riêng của mình thì mới gọi là NHÂN
(tr.5). VỊ (**) là người có cái vị trí của họ (tr.20). Hai chữ nầy hợp lại để diễn tả ý tưởng: Vị trí, phẩm giá và trách nhiệm của con người trong cộng đồng nhân loại và trong vũ trụ.
Chữ NHÂN trong Khổng Học, ngoài ý nghĩa trên còn mang một bản chất siêu nhiên, “Nhân
linh ư vạn vật”, nghĩa là con người linh thiêng hơn hết mọi loài và là
nền tảng cho mọi sự trong vũ trụ. Con người khác với con vật ở chỗ biết
suy tư, tức là có một
đời sống tâm linh, lại còn có một đời sống vật chất biết hành động. Hai
yếu tố tinh thần và vật chất đối nghịch nầy lại cùng tốn tại và phát
triển như là một thực thể duy nhất. Đây là sự ghuyền diệu của bản chất
con người.
Ngoài ra giá trị con người còn nằm ở khả năng của ý chí có thể dung hòa được những mâu thuẩn nội
tại và bên ngoài. Ví dụ, mâu thuẩn giữa ý chí và đam mê hay giữa thiện
và ác. Ý chí và tình yêu đều mang bản chất
tự nguyện. Muốn hành động xấu hay tốt, yêu hay ghét là hoàn toàn do ý
chí tự nguyện của con người: “Cái việc vi nhân đó không phải nhờ cậy ai
đâu: tính nhân trời phú cho mình, đức năng có sẳn trong lòng mình, bây
giờ làm cho hết công việc nhân cũng chỉ bởi tự mình làm lấy, há phải ở
người ngoài ru?” Nói một cách đơn giản, nếu những giá trị nhân bản và vị
trí cao quí của con người nầy mà không được tác động, không có cơ hội
hoặc môi trường thuận lợi để phát triển thì chúng chỉ là những giá trị,
những ý niệm tĩnh (chết), là những lý thuyết suông, không giúp ích gì
cho
con người và xã hội. Cho nên Khổng Tử chủ trương muốn thành NHÂN (động)
tức là đạt đến những giá trị và vị trí cao quý nầy, mỗi người phải lấy
tu thân làm đầu: Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ”.
Trong sách luận ngữ Khổng Tử dạy:
Trừng
trị hết cái bệnh tư dục của mình là khắc kỷ, hồi phục được chân lý của
Trời là phục lễ thế
NHÂN [khắc kỷ phục lễ vi nhân] … Hễ một mai khắc được kỷ, phục được lễ,
công phu làm Nhân đã hoàn toàn, đức nhân ở trong mình đã thạnh vượng
thời ảnh hưởng vì đức nhân mình mà truyền bá được rất xa, chắc thiên hạ
qui hướng về cả thảy [nhấ nhật khắc kỷ phục lễ thiên hạ quy nhân yên] (P.B. Châu, tr.35)
Những người đã dày công phu khắc được “kỷ” phục được “lễ” đều là những bậc chính nhân quân tử, đáng
được suy tôn là “chí sĩ”, Khổng Tử nói:
“Hễ gọi bằng người “sĩ” có “chí”, chẳng phải gì lạ đâu, cũng chỉ là người có đức nhân mà thôi. Làm trọn vẹn đức nhân mới là chí sĩ.
Những bậc người ấy, một đời người từ thỉ chí chung, chỉ đặt cái chí
mình lên trên chữ NHÂN: “Đời mình sống với nhân, đời mình chết cũng chết
vì nhân; nếu chẳng may mà gặp lấy hoàn cảnh xấu, mà thân mình không thể
sống được thời âu là giữ lấy chữ “nhân”
cho trọn vẹn cái chí của mình, chứ không cầu sự sống mà vì nó làm hại
đức nhân. Khi sự thế đáo đầu, phải xem “nhân” hơn sự sống, nên có lúc
giết cái thân mình, để vì nó mà hoàn thành được đức nhân [Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân]”
Hai
anh em Ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã sát nhập hai học thuyết
NHÂN và VỊ nầy của Nho Giáo rồi hệ thống hóa các tư tưởng nhân bản nầy
lại thành một chủ thuyết chính trị, lấy tên Chủ Nghĩa Nhân
Vị. Trong ngày kỷ niệm sinh nhật của Đức Khổng Tử, Ông Ngô Đình Diệm đã long trọng một lần nữa xác nhận rằng NHÂN và VỊ chính là hai học thuyết của Nho Giáo (1958, Q. 4, tr.97). Và Ông còn lặp lại lời của Mạnh Tử: “Hãy sống (động) theo Nhân và hành động theo Nghĩa thì đó là một đời sống có ý nghĩa rồi” . Vì thế, cứ dựa vàn Nhân nghĩa và địa Vị để
mà hành động, chúng ta không còn phải lo sợ lỗi lầm gì nữa (1958, Q 4,
tr.99). Ông Ngô Đình Nhu đã đặt con người riêng rẽ vào trong cộng đồng
của con
người, khung cảnh xã hội của nó, để phát họa vai trò của cơ quan công
quyền trong giải pháp Nhân Vị như sau:
“Lý thuyết về một Xã Hội Nhân Vị gồm hai nguyên tắc căn bản:
* Tôn trọng phẩm giá con người và thiết lập một hệ thống những quyền lợi chung của cộng đồng;
*
Giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội nằm ở chỗ thực hiện được
tình trạng quân bình giữa những nhu cầu căn bản của cá nhân và quyền lợi
của cộng đồng mà cá nhân ấy là một thành phần.” (1952, Lược Đồ Cải Tạo
Xã Hội)
Tóm
lại khi nói chủ Nghĩa Nhân Vị mang một ý nghĩa nhân bản phải hiểu nó bao
gồm đầy đủ bản chất của con người (phần tĩnh [static] và ý chí (phần
động [dynamic]) như vừa trình bày. Và quan niệm “cộng
đồng Nhân Vị” diễn tả “một tập hợp những con người (** viết chữ Nho) có
đạo lý làm người của chữ NHÂN (**), trong đó nguyên tắc thứ nhất chính
là mặt tĩnh của Chủ Nghĩa Nhân Vị. Nguyên tắc thứ hai mới là phần động , phần tích cực của Chủ Nghĩa Nhân Vị: Một chính quyền muốn phục vụ cho
lợi ích căn bản của con người, có trách nhiệm tạo cơ hội và điều kiện
thuận lợi để con người được tự do phát triển (tu thân) và phải thực hiện
cho được tình trạng quân bình giữa các nhu cầu căn bản
của cá nhân và cộng đồng. Ví dụ như hiến pháp
qui định mọi người đều có quyền tự do căn bản nhưng chính quyền không
làm gì để những quyền nầy được thực hiện, thì các quyền tự do căn bản
nầy cũng chỉ là những ý niệm xuông. Hiến pháp là tờ giấy nháp!
Phẩm
giá của mỗi con người được thực sự tôn trọng một cách tự nguyện. Có thể
nói cộng đồng nhân vị tương đương với “xã hội dân sự” (civil
society), một quan niệm được các thuyết gia dân chủ học Tây Phương đem
vào xử dụng hồi cuối Thế Kỷ Mười hai.
b- Căn bản Triết Học của Chủ Nghĩa Nhân Vị.
(cònctiếp)
Nền tảng triết học của Chủ Nghĩa Nhân Vị là các giá trị nhân bản của Nho Giáo.
Khổng
Học lúc đầu, chú trọng đến việc thiết lập một hệ thống luân lý thực
tiễn cho các sinh hoạt xã hội hơn là đề xướng một triết học nhận thức
hoặc tôn giáo. Mãi đến khi về già, Khổng Tử mới lấy Kinh Dịch làm căn
bản triết học cho một đạo sống thực tiễn. Ông cho rằng cội rễ của vạn
vật là do một thực tại tuyệt đối có những tánh chất như Đạo của Họ Lão.
Thực tại tuyệt đối đó được mệnh danh là Thái Cực (the Absolute).
Nhưng trong cái im-lìm và thuần nhất của Thái Cực, tự nó đã có chứa sẵn bên trong hai nguyên động lực tương sinh tương khắc gọi là Lưỡng Nghi: Đó là Âm (negative) và Dương (positive). Hai nguyên tắc Âm và Dương đó tương sinh tương khắc lẫn nhau để sinh ra Tứ Tượng (4 seasons) rồi
cứ tiếp tục phân hóa như thế thành muôn vàn hiện tượng của vũ trụ nầy.
Đó là quan niệm của Nho Giáo về cách thức và lịch trình hiện tương hóa
(hay còn gọi là Dịch Hóa). Kinh Dịch đã dần dần kết tập sự chuyển hóa Âm
Dương thành 64 quẻ, mỗi
quẻ tương trưng cho một trạng thái tương quan giữa TRỜI, ĐẤT VÀ NGƯỜI. Tương quan nầy biểu hiện sự hòa đồng Tiểu Ngã con người với Đại Ngã của vũ trụ hay còn gọi là lý tưởng THÁI HÒA (vừa tĩnh vừa động). Cho nên Khổng Học đưa ra thuyết “Thiên, Nhân tương dữ” (Trời, Người, như nhau) làm quan niệm căn bản.
Đến
đầu thế kỷ 20 thì lý tưởng hòa đồng giữa con người với vũ trụ của Nho
Giáo đã
được Triết Gia Kim Định hệ thống hóa trong học thuyết Tam Tài của Việt
Nho (khác với Hán Nho), xác định rõ giá trị và vị trí của con người. Vũ
trụ quan (cosmology) của Việt Nho cho rằng trong vũ trụ nầy có ba quyền
lực lớn, có giá trị ngang nhau và cùng tồn tại với nhau.Vì thế Việt Nho
coi con người là tiểu vũ trụ, là nơi hội tụ của trời và đất. “VỊ” của
con người là đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Vị trí nầy theo
Cấu Trúc Luận của An Vị là vị trí THÁI HÒA, Thái hòa giữa tinh
thần và vật chất, giữa tình và lý, giữa hơn và kém,
giữa đúng và sai, giữa quyền lợi cá nhân và cộng đồng, tức là giữa 2 đối
cực. Ở vào vị trí nầy con người đã đạt đến một tình trạng quân bình
động, một tình trạng thuộc về tâm linh. Nhưng muốn đạt đến tình trạng
Thái Hòa, bản thân mỗi người phải qua một tiến trình tu thân bền bỉ. Những người nầy đã khắc được kỷ phục được lễ, đã làm trọn vẹn đức NHÂN và Khổng Tử gọi họ là “chí sĩ”. Vì thế lý tưởng hòa đồng hay thái hòa của Việt Nho được Triết Lý An Vị xếp vào bậc cao nhất trong
sự trình tâm thức con người.
Tóm
lại những giá trị nhân bản dùng làm căn bản xây dựng Chủ Nghĩa Nhân Vị
đều có một cơ sở triết học vững chắc. Ngoài ra Chủ Nghĩa Nhan Vị khi
được hướng dẫn bởi lý tưởng Thái Hòa, một sự kiện tâm linh
(heart-spirit) bao gồm hết các giai đoạn phát triển nên mang tính toàn
thể và thực dụng. Thực dụng vì nó bao gồm cả lý và tình, nên Chủ Nghĩa
Nhân Vị là một chủ nghĩa hành động.
II Chủ Nghĩa Nhân Vị và vấn
đề Dân Chủ Hóa Việt Nam .
a-Chủ Nghĩa Nhân Vị và các mô hình dân chủ cổ điển hay đại nghị Tây Phương và dân chủ tập trung của Cộng Sản.
Chủ
Nghĩa Nhân Vị cho rằng dân chủ của Cộng Sản độc tài chà đạp phẩm giá
con người, coi người như con vật. Chủ Nghĩa Nhân
Vị cũng bác bỏ loại dân chủ muốn đặt tư bản phong kiến trên tần lớp cần
lao, và chủ trương chế độ thực dân để bóc lột những dân tộc nhược tiểu.
(1955, Q.2, tr.104). Theo Ông Diệm
“Dân
Chủ không thể đóng khung trong một số công thức và định lệ được đặt ra ở
những thời đại khác, dưới những bầu trời khác. Nhiều quốc gia đã có lâu
đời ở Tây Phương, phong phú về mọi phương diện, cũng đã phải cải cách
cơ
cấu của chế độ dân chủ đại nghị mà họ đã áp dụng từ trước. Có nhiều nước
mới dành độc lập chỉ vì vội vã chấp nhận những chế độ dân chủ đó mà bây
giờ rơi vào tình trạng bế tắc hổn loạn. (1950, Q.5)
Khi trả lời phóng viên báo Malaya Mail về vấn đề dân chủ hóa Việt Nam , Ông Diệm lập luận rằng:
“Một
mô thức dân chủ
nào đó không thành vấn đề tại nước kém mở mang. Điều đáng quan tâm là sự
dung hòa những phương pháp dân chủ ấy với những đòi hỏi cấp bách để có
thể nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng kém mở mang, nghĩa là sự ngu
dốt, nạn đói kém, tật bệnh, ngoại xâm và nỗi nhục nhã do tất cả những
nạn đó gây ra. Nếu muốn thoát khỏi điều kiện thấp kém đó một cách mau lẹ
chứ không phải trong hàng thế kỷ, ta nhất định phải theo một lộ trình
cưởng bách nào đó. Vấn đề dân chủ nằm ngay ở điểm phải đặt giới hạn cho
lộ trình cưởng bách đó” (19-2-1960)
Theo
Ông Ngô Đình Diệm, các mô hình về dân chủ chẳng qua chỉ là hình thức,
là lý thuyết suong (duy lý niệm), sẽ không có thực dụng. Cần phải dung
hòa chúng với thực tại và một biện pháp hoặc kỷ luật tinh thần (yêu
chuộng công ích chẳng hạn) đi kèm theo thì mới có thực nghiệm. Hay nói
theo An Vị các lý thuyế nầy khởi đi từ “Ý” (ý niệm) nên chỉ đến “TỪ”
(lời nói xuông) và không đạt tới “Dụng” (thực hành) được.
b-Dân Chủ thực sự
Ông Diệm chủ trương Dân Chủ Nhân Vị là
một tình trạng tinh thần, một lối sống mà lối sống ấy con người thật sự
biết tin6 trọng nhân phẩm của chính mình và của người khác. Quan niệm
nầy nhấn mạnh đến hai yếu tố (a) đặc tính văn hóa cổ truyền của dân tộc
(1959, Q.5) và (b) yếu tố con người: tinh thần sống đạo đức
(phần động) phải có, của tầng lớp lãnh đạo cũng như các tầng lớp dân chúng. Ông nói “Dân Chủ là một chế độ đạo đức chỉ phát triển nếu quan niệm Thiện Ích Chung mỗi ngày ăn sâu rộng trong Nhân Dân và Chánh quyền” (1957,
Q.3, tr.12). Và đạo đức mà Ông Diệm nói ở đây chính là tinh thần yêu
chuộng công ích, trong danh dự và thể diện quốc gia, đức liêm khiết
chính trực, mọi người cần phải rèn luyện thành tinh thần hy sinh, óc kỷ
luật, tinh thần trách nhiệm, sự nhã nhặn trong giao tế, tôn trong người
và tôn trọng cả chính mình. Đó là những đức tính được
gói trọn trong hai chữ THÀNH và TÍN của Nho Giáo và mang một bản chất tự
nguyện. phải tu thân mới có được. Dây chính là những nguyên tắc căn bản về nền dân chủ tương laic ho Việt Nam mà
Ông Diệm đưa ra trước Quốc Hội ngày 5-10-1959, nhằm hưio71ng dẫn việc
soạn thảo Hiến Phap. Tuy nhiên những giá trị tinh thần nói trên cũng khó
khăn mà xuất hiện khi con người còn đang phải nộ lệ miếng cơm manh áo.
Ví thế Chủ Nghĩa Nhân Vị đã đưa ra một chiến lược dân chủ hóa, một tổng
hợp các phương pháp dân chủ nhằm phù hợp với hoàn cảnh Nam Việt Nam, một
xã hội hậu thuộc địa và trong tình trạng chuẩn bị chiến tranh với Cộng
Sản miền Bắc.
c- Dân Chủ hóa từ dưới bung lên.
Để
thực hành lý thuyết Dân Chủ Nhân Vị, chính phủ của Ông Diệm đã phát
động hai cuộc cách mạng cùng một lúc nhằm dung hòa (Thái Hòa) giữa lý
thuyết và thực hành, giữa cá phương pháp dân chủ và điều kiện đặc biệt
của xứ sở. Tuy nhiên, trong
điểm chiến lược dân chủ hóa là từ dưới bùng lên.
*Cuộc cách mạng thứ nhất, xẩy
ra trên thượng tầng cấu trúc: chuyển đổi chế độ quân chủ sang chế độ
cộng hòa. Cuộc cách mạng không đổ máu nầy được phỏng theo các định chế
của chế độ dân chủ đại nghị ở các nước tự do đàn anh. Bắt đầu là một
cuộc trưng cầu dân ý (23-10-1955), truất phế cựu Hoàng Bảo Đại và tín
nhiệm Ông Ngô Đình Diệm trong chức
vụ Quốc Trưởng. Sau đó một quốc hội lập hiến được bầu ra để soạn thảo
Hiến Pháp. Hiến Pháp trù liệu bầu ra một tổng thống và quyền lực quốc
gia cũng được phân phối theo nguyên tắc phân quyền giữa hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Nhưng đặc biệt là theo tổng thống chế. Tổng thống được
giao phó nhiều quyền lực nhằm mục đích thiết lập ra cái giới hạn cho một
lộ trình cưởng bách với mục đích dung hòa các lý thuyết dân chủ với
thực trạng của đất nước lúc bấy giờ. Tuy nhiên tất cả chỉ là (dân chủ)
hình
thức, mang nặng phần lý thuyết và là “bước đầu để tiến tới công cuộc dân
chủ hóa các guồng máy quốc gia”. Để giải thích thêm về sự chọnlu7a nầy,
Ông Ngô Đình Diệm kể lể với Higgins: “Cô Higgins,
Cô đã viếng thăm các làng quê Việt Nam . Cô cũng đã từng nhìn thấy những
người Thượng cầm cây lao và với những phong tục tập quán đầy mê tín dị
đoan. Những người Chàm. Những người Cao Đài. Những người Hòa Hảo. Những
làng mạc còn trong tình trạng sơ khai, cai trị bởi Ông Bà Tổ Tiên, bởi
những người đã chết – đây cũng là tình
trạng ở hầu hết các nơi khác của Việt Nam . Cô
nói cho tôi biết, cô Haggins, một nền dân chủ đại nghị có ý nghĩa gì đối
với họ trong khi ngôn ngữ của họ chưa có ngôn từ để diễn tả từ ngữ
chính trị nầy?” (Tr.166)
Tình trạng thấp kém nầy buộc hính quyền dân chủ nhân vị phải đặt giới hạn cho một lộ trình cưởng bách, giới hạn về cơ cấu (không phải về tinh thần dân chủ),
để dung hòa những phương pháp dân chủ
với tình trạng kém phát triển của đất nước. Để phục vụ con người của một
xã hội lạc hậu, mô hình Dân Chủ Nhân Vị không thể đóng khung trong
những mô thức dân chủ Tây Phương với một xã hội ổn định và có một đời
sống vật chất cao. Ấy là chưa kể đến mô thức dân chủ tập trung của Cộng
sản chà đạp nhân phẩm con người và dân chủ đại nghị Tây Phương lại đặt
lợi ích tư bản trên tầng lớp cần lao. Ngoài ra đây là một sự chọn lựa
cần thiết để xoa dịu những đòi hỏi phải thực hiện dân chủ
đại nghị kiểu Tây Phương của trí thức cấp tiến cũng như của phe đối lập.
Và bổ túc cho “dân chủ đại nghị hình thức” ở thượng tầng, Chủ Nghĩa Nhân Vị thực hiện một loạt dân chủ trức tiếp bằng một cuộc cách mạng dưới hạ tầng.
** Cuộc cách mạng thứ hai, xây
dựng một nền dân chủ thực sự dưới hạ tầng cơ sở: Đó là Quốc Sách Ấp
Chiến Lược (ACL) hay còn gọi là cuộc cách mạng nông thôn. Một hệ thống
ACL, dinh điền, khu trù mật, với tinh thần dân chủ cổ truyền của làng xã
tự trị Việt Nam đã được xây dựng trên khắp miền quê Việt Nam . Đây
không phải là cái mô hìnhACL đã được xây dựng ở Mã Lai bởi Đại Úy
Thompson, một sĩ quan trong quân đội Liên Hiệp Anh. ACL ở Mã Lai thuần
túy là một định chế quân sự, nhằm tách rời Mã Cộng ra khỏi dân chúng
để tiêu diệt. Trái lại, ở Miền Nam Việt Nam, “Đề xướng ấp Chiến Lược là
để thành một cuộc cách mạng chính trị, xã hội vá quân sự, thích hợp cho
nước kém mở mang và nhằm chống 3
thức giặc chậm tiến, chia rẽ và Cộng Sản. ACL
bảo đảm an ninh thôn xã và duy trì mối tương thân liên đới và tự túc.
Một nền dân chủ pháp trị thực sự, cộng đồng đồng tiến, công bằng xã hội.
ACL
là cơ hội để luyện tập khổ hạnh cho tâm hồn thanh khiết, tự mình vượt
quá mình. Mục đích của ACL là để cứu vớt và giải phóng toàn diện con
người đứng trước hiện tượng chậm tiến của Á Phi. ACL nêu lênmo65t chủ
trương
lớn lao, một cuộc cách mạng để hoàn thành. (1962, Q.8, tr. 118-119)
Chiến
lược xây dựng Dan Chủ Nhân Vị bắt đầu từ hạ tầng cơ sở, ở nông thôn,
nơi mà 95 phần trăm dân chúng sinh sống. Thứ nhất là vì dân chúng thành
thị, các thành phần trí thức và quan chức trong guồng máy công quyền đã
va chạm và bị ảnh hưởng sâu đậm bởi một lối sống văn minh vật chất, công
cuộc tái võ trang tinh thân cho họ cần thời gian. Thứ hai, nếu xây dựng
được tại nông thôn một vùng thịnh
vượng với kinh tế sơ bản, mỗi gia đình vô sản đều có được một nóc nhà và
một miếng đất sinh hoa lợi đủ sống, tức là trang bị cho đại đa số dân chúng một bảo đảm thực sự cho tự do cá nhân và thói quen tham gia việc chung (làm
quen với sinh hoạt dân chủ). Từ những định chế dân chủ căn bản, tự trị
vế tinh thần và vật chất ở hạ tầng cơ sở nầy, công cuộc dân chủ hóa trên
thượng tầng cấu trúc sẽ dần dần xuất hiện.
III – Chủ Nghĩa Nhân Vị và vấn đề phát triển Kinh Tế Xã Hội
Ngày 16 tháng 6 năm 1949, lúc còn ở ngoài chính quyên, Ông
Diệm đã bắt đầu cổ võ cho một đường lối kinh tế Nhân Vị như là một giải
pháp thích hợp để đem lại dân chủ tự do thực sự cho Việt Nam . Ông nói:
“…
Điều quan trọng là mọi người cần hiểu rằng cuộc đấu tranh
của chúng ta hiện nay không phải chỉ thuần túy là cuộc đấu tranh dành
độc lập cho đất nước. Đây còn là cuộc cách mạng xã hội để đòi lại độc
lập về kinh tế của các nông dân và người lao động. Tôi
chủ trương những cuộc cải tổ tiên tiến và táo bạo về mặt xã hội, nhằm
bảo toàn và tôn trọng phẩm giá của con người, nhằm vào một mục đích duy
nhất là thấy được tất cả những người của một Việt Nam mới làm ăn sinh
sống như là một con người thực sự tự do”. (Gió Nam , 1-7-59, tr.3)
Vậy
thế nào là độc lập về kinh tế? Nghĩa là phải thâu hồi bằng được chủ
quyền
kinh tế từ các chủ nhân ngoại quốc, bao gồm các khu vực nông nghiệp,
thương mại, kỷ nghệ, giao thông vận tải, ngân hang, v.v… Khi có được chủ
quyền về kinh tế, mọi người mới có thể trực tiếp tham gia vào việc điều
hành guồng máy kinh tế và mau chiong1 nâng cao mức sinh hoạt, sớm giải
thoát họ khỏi nỗi tủi nhục khổ nghèo, khỏi kiếp làm thuê làm mướn, và
cuối cùng, mới có thể
đảm bảo phẩm giá của họ. Không có độc lập kinh tế cũng sẽ không bao giờ
có dân chủ kinh tế thật sự, một nên dân chủ mà trong đó thợ với chủ có
thể cộng tác chặc chẽ trên căn bản bình đẳng: bình đẳng không phải chỉ
về phương diện luất pháp mà phải cả trong đời sống hàng ngày. Muốn như
vậy phải tạo nên cả một hệ thống an ninh xã hội trong đó người
dân ở bất cứ giai cấp nào, từ lúc lọt lòng cho đến khi nhma81 mắt, đều
được bảo vệ chống lại nạn đói rét, nạn thất nghiệp, nạn già yếu, nạn
ốm đau, v.v… (1955, Q2, tr.160).
a- Các nguyên tắc của Kinh Tế và Xã Hội Nhân Vị.
Ông
Diệm đã đưa ra một chương trình kinh tế nhằm hai mục tiêu: Thứ nhất là
kiện toàn nền độc lập của nước nhà trong lãnh vực kinh tế. Thứ hai là
canh tân nền kinh tế quốc gia để nâng cao mức sống của nhân dân. Đặt
trên căn bản Thái Hòa, Nhân Vị chủ trương cuộc cách mạng kinh tế xã hội
phải gồm ba điều kiện tiên quyết:
* Dân phải được trực tiếp tham gia vào việc điều hành các hoạt động kinh tế.
*
Mục tiêu ưu tiên hang đầu của chính sách kinh tế xã hội là phải bảo đảm
mỗi người dân có đươc một mái nhà và sở hữu chủ các phương tiện sản
xuất để làm ra của cải nuôi sống bản thân và gia đình mình.
Nhân
Vị (cá nhân) và cộng đồng đồng tiến.
Những nguyên tắc nầy được chọn làm căn bản giải quyết xung đột cố hữu về quyền lợi giữa cá nhân và cộng đồng, vấn đề tái phân phối lợi tức quốc gia.
b- Kiện toàn nền độc lập về mặt kinh tế.
Theo
Ông Ngô Đình Diệm thì các ngành hoạt động quan trọng như kỷ nghệ,
thương mại, vận tải, bảo hiểm lúc bấy giờ, đều đang nằm trong tay người
ngoại quốc. Vì thế, tuy nông nghiệp là căn bản của dân sinh, nhưng nếu
không nắm được chủ quyền về các ngành then chốt như kỷ nghệ, thương mại
thì người nông dân sẽ là nạn nhân đầu tiên vì bị thiệt thôi. Trước ngày
Ông về lập chính phủ, người nông dân Việt Nam chỉ được hưởng 12% trên
tổng số tiền xuất cảng
thóc gạo hằng năm. Số 88% được dùng để trả công, trả hoa hồng, hay trả
lãi cho các ngân hang, các công ty bảo hiểm, công ty xuất nhập cảng, các
hãng vận tải, cá nhà máy gạo … nghĩa là những trung gian ngoại quốc
sinh sống ở Việt Nam. Dân Việt nam tuy làm việc đầu tắt mặt tối, chân
lấm tay bùn mà vẫn nghèo túng. Ngoài ra, mục đích tối hậu của những nhà đầu tự ngoại kiệu nầy là lợi nhuận nên “khi vui
thì vỗ tay vào” đến khi hoạn nạn thì họ rút ra và nền kinh tế của ta sẽ
bị tê liệt. Cuối cùng, dù cho chúng ta có giỏ giang siêng năng đến dâu
thì
cũng vẫn là kẻ làm thuê, đóng những vai trò phụ,làm tung gian đắc lực
cho các hãng ngoại quốc. Ông tuyên bố: “Nay
hoàn cảnh đã khác hẳn. Các bạn có thể trông cậy vào sự nâng đở triệt để
của Chính Phủ Quốc Gia do tôi lãnh đạo, để khuyếch trương công cuộc kinh
doanh của chính các bạn” (1955, Q.2, tr.154)
c- Kinh Tế Nhân Vị và các mô hình kinh tế chỉ huy và tư bản.
Các nguyên tắc mà Nhân Vị theo đuổi, phủ nhận những việc tiêu
cực cả cả hai mô hình Kinh Tế Tư Bản Tự do và Kinh Tế Xã Hội Chỉ Huy.
Ví dụ như mức độ can thiệp của chính phủ vào guồng máy kinh tế chẳng
hạn. Kinh tế chỉ huy và kinh tế tư bản đều tỏ ra cực đoan, hoặc can
thiệp tối đa hoặc không can thiệp gì cả. Chính sách kinh tế Nhân Vị đặt
giới hạn mức độ can thiệp của chính phủ vào guồng máy kinh tế quốc gia
trong cuộc cách mạng kinh tế xã hội, tuy không theo đương lối kinh tế
chỉ huy của cộng sản nhưng cũng chẳng
theo đường lối kinh tế tự do của tư bản. Trong thực hành, chính phủ sẽ
phải dung hòa (thái hòa) các ưu tiên phải thực hiện với hoàn cảnh phức
tạp hiện tại của đất nước, cân bằng được đòi hỏi của cá nhân với quyền
lợi của cộng đồng.
Ông Ngô Đình Diệm giải thích :
“Theo ý tôi, trong
hiện tình của nước nhà, những thắc mắc về
một mô hình kinh tế là quá nặng về phần lý thuyết và không mang một lợi
ích thiết thực nào. Chánh phủ do tôi lãnh đạo chỉ có một mục đích duy
nhất là: bảo vệ nền độc lập của giang sơn và tăng gia hạnh phúc của toàn
thể dân chúng. Cái
gì có lợi cho quốc gia dân tộc, thì nên làm. Trái lại, bất cứ cái gì có
hai cho quốc` gia dân tộc, thì phải bài trừ cho triệt để.
Hiện nay nước ta bị tàn phá rất nhiều vì chiến tranh; vậy nhiệm vụ đầu
tiên của chính phủ là kiến thiết lại đất nước, là xây đắp đường sá, tu
sửa
cầu cống sông ngòi. Hiện nay có một triệu dân di cư: vậy nhiệm vụ của
chính phủ là tìm chỗ cho họ định cư, tìm việc cho họ. Các xí nghiệp
ngoại quốc đang chuẩn bị rời khỏi Việt Nam . Chúng ta có nhiệm vụ phải
hỗ trợ xây dựng những xí nghiệp Việt Nam thay vào đó. Nếu các doanh gia
Việt nam chưa thể làm được thì chánh phủ sẽ phải đứng ra gánh vác”.
(Q.2, tr.157)
d- Canh tân Nông Nghiệp để nâng cao mức sống và tiến đến tự túc.
Ý
niệm “nâng cao mức sống” của Nhân Vị không phải chỉ bao gồm những nhu
cầu sinh lý trực
tiếp của con người như ăn mặc, nhà cửa, điện nước v.v…, mà còn bao gồm
tất cả những sinh hoạt có những tính cách chế ngự khung cảnh địa lý, sửa
đổi khung cảnh đó và biến nó thành một khung cảnh mới làm căn bản không
những cho sự thỏa mãn nhu cầu vật chất của một số người xấu số mà cả
các sinh hoạt trí thức và tinh thần của toàn thể xã hội và ở một mức độ
cao hơn, đó là ý niệm
“Cải tạo căn bản vật chất của sinh hoạt xã hội”. Như vậy cải tổ xã hội
về phương diện vật chất, đòi hỏi không những sự phân phát cho một số
người nghèo và thiếu thốn một số vật dụng cần thiết cho đời sống của họ,
mà cả một cuộc cách mạng kỷ thuật để tạo cho xã hội một khung cảnh vật
chất hoàn toàn mới, rộng rãi hơn và mỹ lệ hơn. Cách mạng kỷ thuật nầy
đòi hỏi một sự cải tổ rộng rãi của giáo dục, và dặc biệt là đem khoa học
vào giáo dục, đem tinh thần khoa học vào giáo dục (như việc
thiết lập các trường quốc Gia Hành Chánh, trường Đại Học Khoa Học, Công
Nghệ, trường Quốc Gia Nông Lâm Súc, Kỹ Thuật v.v… )
Đặc
biệt trong lãnh vực cải cách điền địa, Chủ Nghĩa Nhân Vị đưa ra một
quan niệm mới về quyền tư hữu để xác nhận địa vị ưu tiên của sức cần
lao: tối thiểu mỗi người phải được làm chủ một mảnh ruộng đủ lớn với các
phương tiện sản xuất để có thể làm ra của cải để
nuối sống mình và gia đình mình; đồng thời sở hữu một mảnh vườn một căn
nhà. Khi phân phối lại đất đai để thực hiện chính sách về tư hữu nầy,
chánh Phủ Nhân Vị được trao quyền lực để truất hữu và bồi thường các
điền chủ có ruộng đất “có bay thẳng cánh”. Chánh Phủ đã
“Ban
bố luật cải cách điền địa hợp lý công bằng và thích ứng với nhu cầu kỹ
thuật. Trong những đạo luật cải cách ấy, Chánh Phủ không chủ
trương tiêu hủy quyền tư hữu (như kinh tế chỉ huy đã làm) – vì quyềnn ấy
là một đảm bảo tự do căn bản của con người – nhưng quyết định
hạn chế triệt để những sự lạm dụng phát sinh ra do quan niệm cổ truyền
quá ư rộng rãi về quyền tư hữu (như kinh tế tư bản chủ trương), và đồng
thời tạo cho nông dân và gia đình họ những phương tiện sản xuất thuận
lợi với những điều kiện vững chắc”. (1955, Q.1, tr.31)
Ở đây, khi công nhận quyền tư hữu của nông dân có nghĩa là chống
lại chính sách vô sản hóa của nền kinh tế chỉ huy; nhưng Chánh Phủ lại
can thiệp bằng một đạo luật nhằm giới hạn quyền tư hữu tuyệt đối của hệ
thống kinh tế tư bản, thường đem lại hậu quả người quá giàu và kẻ không
có gì cả.
Nguyên
tắc công bình và nhân đạo chẳng hạn, được thể hiện trong những Đạo Dụ
ấn định mức tô xuất khoảng 15-25% trị giá huê
lợi và khẩu ước giữa tá-điền và điền chủ phải cải thành “khế-ước”. Hoặc
trong một dự án trích cấp đất cho dân di cư, cựu chiến binh:
“Những
ruộng bỏ hoang trong mùa vừa qua sẽ được trích cấp, trong thời hạn 3
năm, cho các tá điền đã cày cấy những ruộng đất ấy,cho dân di cư, cho
các cựu chiến binh và công dân đã bỏ mình vì nước. Những người được
hưởng ruộng trích cấp, sẽ được miễn địa tô hoàn toàn trong năm đầu,
một nửa trong năm thứ nhì và một phần tư trong năm thứ ba” (Q.1, tr.31)
Ngoài
ra, Chánh Phủ còn chủ trương khuyến khích nông dân tập hợp thành hợp
Tác Xã Nông Nghiệp với mục đích trao đổi với nhau về chuyên môn để nâng
cao kỹ thuật sản xuất và loại bỏ trung gian, tiếp thị những nông phẩm
của chính họ. Rồi những gia đình của nông dân nầy cùng với
hợp tác xã, hợp thành cộng đồng. Cuối cùng 3 định chế nầy sẽ được tập
hợp lại thành một
đơn vị kinh tế xã hội mang bản chất tự cung, tự cầu. Ba định chế
nầy sẽ là thế chân vạc để giúp xã hội nảy nở phát triển không ngừng về
mọi mặt, tiến thành những Ấp Tự Trị lấy tên là Ấp Chiến Lược (ACL) Không
những họ có thể tư trị về chính trị, kinh tế, xã hội, và ngay cả an ninh nữa. Các ACL nầy được xây dựng khắp nơi để thức hiện khẩu hiệu cá nhân và cộng đồng đồng tiến.
Như vậy, khi hoàn
thành được ACL ít ra hạ tầng cơ sở, đại đa số nông dân, công nhân đã có thể độc lập, dân chủ và tự do thực sự. Vế
miền quê Việt Nam sẽ có một bộ mặt mới, một xã hội tự do dân chủ ấm no
hạnh phúc trong sự tôn trong nhân phẩm, công bình và bác ái. Những giá
trị nhân bản nầy chính là ý nghĩa đích thực của chữ NHÂN trong văn hóa
Việt Nam . Mô hình chính trị làng xã cổ truyền là những giá trị dân chủ
cổ truyền độc đáo của dân tộc Việt Nam .
Tóm
lại, chủ
thuyết Nhân Vị là một triết lý nhằm xác định và đề cao giá trị con
người, vị trí của con người trong tương quan với vũ trụ, với người khác
và trong cộng đồng xã hội. đồng thời là một chủ thuyết chính trị chủ
trương thiết lập những định chế thích hợp để tạo cơ hội và khuyến khích
việc phát triển các giá trị nầy đến mức cao rộng nhất và hương về việc
phục vụ hạnh phúc con người. Chũ Nghĩa Nhân Vị lấy “con người biết tu thân (thái hòa)” làm
nền tảng cho giải pháp, để giải quyết cá mâu thuẩn trong
sinh hoạt của con người. Khi Ông Diệm nói một đường lối mới, ý Ông muốn
nói đã lâu rồi những truyền thống tư tưởng tốt đẹp nầy của dân tộc không
được đem ra để áp dụng vào các sinh hoạt quốc gia vì bị nô lệ Tầu, Tây
và phong kiến, rồi lại bị ảnh hưởng bởi một tà thuyết duy vật ngoại lai.
IV- Phản ứng về Chủ Nghĩa Nhân Vị.
1-Những phản ứng
nghịch.
Ông Diệm từng than phiền
với Ông Cao Xuân Vỹ, Thủ Lãnh của Phong Trào Thanh Niên Cộng Hòa rằng:
“Ngay cả đến Bộ Trưởng cũng không hiểu được Nhân Vị là gì thì làm sao mà
chúng ta thực hiện được cuộc cách mạng quốc gia” (17-3-95)
Ngoài
ra Chủ Nghĩa Nhân Vị không được đưa vào thử nghiệm ngay trong thời
chiến lại còn phải ganh đua
với 2 chủ nghĩa lớn đương thời chia đối thế giới, Cộng Sản và Tư Bản. Vì
thế không những kẻ thù Cộng sản, mà ngay cả các đảng phái đối lập và
đồng minh Hoa Kỳ, luôn tìm cách phá hoại, xuyên tạc làm trở ngại cuộc
thử nghiệm của Chủ Thuyết.
a-Quốc
Sách ACL đã bị kẻ thù Cộng sản tìm mọi cách đánh phá. Việt Cộng xuyên
tạc là “Ngụy quyền Sài Gòn đã ép buộc dân chúng bỏ mồ mả tổ tiên nhà cửa
làng xã, ép buộc đi làm không công (corvée) xấy ACL” và “ACL
chính là những nhà tù không song sắt”. Người dân vì không hiểu ý nghĩa
và những lợi ích thiết thực của việc xây dưng ACL nên những lời tuyên
truyền nầy đã gây ảnh hưởng bất lợi cho việc thi hành quốc sách. Trong
khi đó các phóng viên ngoại quốc như David Halberstam, Neil Sheeham,
Stanley Karnow v.v… và cáhanh2 phần đối lập lại thường tung tin “Quốc
Sách ACL là một thất bại, không được lòng dân”.
Nhưng, Ông Nhu đã có lần, rất tự hào, mô tả với Đại sứ Maneli của Ba Lan về vai trò quan trọng của hệ
thống ACL trong công cuộc dân chủ hóa Việt Nam. Ông nói:
“Người
Mỹ cũng như Việt Cộng, cả hai đều lầm tưởng rằng ACL là những định chế
quân sự và sẽ hủy bỏ ngay sau khi đã chiến thắng Cộng Sản. Họ lầm vì lý
luận của họ khởi đi từ những tiền đề vật chất. Hệ thống ACL là những
định chế căn bản của một chế độ dân chủ trực tiếp. Một khi những định
chế nầy đã phát triển và nẩy nở mạnh mẽ, chúng sẽ trở thành những
hạt nhân của cơ cấu quốc gia và đến lúc đó vai trò của chính quyền trung
ương sẽ không còn cần thiết nữa” (Maneli, tr.145)
Sau
nầy, Đại Tá Ted Serong, Trưởng Phái Bộ Huấn Luyện Úc ở Việt Nam đã nói
với các viên chức cao cấp Hoa Kỳ ở Washington rằng “Ấp Chiến Lược là một
thành công lớn lao nhất trong chiến tranh Việt Nam và chuyện nầy chưa
được nói đến đúng mức” (M. Moyar, 2006, tr.107)
b- Chủ Nghĩa Nhân Vị
không được đồng minh Hoa Kỳ ủng hộ vì Chủ Nghĩa Nhân Vị của Tổng
Thống Ngô đình Diệm tuy không hoàn toàn chống lại chủ nghĩa tư bản nhưng
về mặt ý hệ không chịu rập khuôn theo mô hình dân chủ và kinh tế thị
trường do Mỹ chủ xướng. Giáo Sư Sử Gia E. Miller và H. Fairbanks nhận
định rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ trương đưa ra cái viễn kiến về
công cuộc phát triển Việt Nam của riêng Ông, một con đường thứ ba nằm
giữa hai chủ nghĩa cực đoan, Xã Hội và Tư Bản. Chính Tổng Thống Ngô Đình
Diệm cũng long trọng xác định
với dân chúng rằng Chủ Nghĩa Xã Hội và Tư Bản không thể đem lại độc lập
tự do và hạnh phúc cho Việt Nam! Con đường mới, con đường Nhân Vị mới
thực sự đem lại cho dân chúng Việt Nam một đời sống ấm no hạnh phúc thật
sự. Chủ Nghĩa Nhân Vị không nhận được sự ủng hộ của người Mỹ cũng là
điều dễ hiểu!
c- Các thành phần đối lập và chống đối chính phủ đã xuyên tạc và chỉ trích chủ Nghĩa nhân Vị là một chủ thuyết của Công Giáo
và ngoại lai, với mục tiêu làm chính phủ suy yếu bằng cách khơi động vấn đề chính trị nhạy cảm, kỳ thị 5on6 giáo. Trong cuốc “Is South Vietnam Viable?” , Ông Ngô đình Nhu viết:
“Hồi
trưo1c chiến tranh, lúc Ông Nhu theo học ở École des Charles đã có tiếp
xúc với Emmanuel Mouner, người đã tỏ vẻ hoài nghi về lý thuyết dân chủ
tự do Tây Phương và cổ võ một lý thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác
ái và giá trị nhân bản, với cái tên là Personnalisme. Ông Nhu tỏ ra say
mê học thuyết nầy và khi về Việt Nam đã thuyết
phục Ông Diệm rằng Personnalisme là một triết thuyết` có thể đối đầu với
chủ nghĩa Mac-xít nguyên thủy mà Việt Minh đang tuyên truyền ở Việt Nam
”
Do đó Ông Thái
cho rằng cái quan niệm nhân bản nầy và mối lien hệ của nó với xã hội mà
Ông Nhu cổ võ, “chẳng có gì là mới mẻ và cái thuyết Nhân Vị cũng chẳng
có gì xa lạ bởi vì trường phái triết học Pháp tong đó có Emmanuel
Mounier và Jacques Maritain đã hết mình cổ võ cho nó trong tờ Nguyệt San
Công Giáo L’Esprit do Mounier chủ trương: (tr.129-130)
2/ Minh định về chủ Nghĩa
Nhân Vị và Personnalisme.
Như
đã trình bày ở phần 1, cả về nhận thức triết học đến giải pháp cải tổ
xã hội của chủ Nghĩa Nhân Vị đều bắt nguồn từ văn hóa cổ truyền và Nho
Giáo (Việt Nho). Không có gì dính líu đến Personnalisme của Mounier cũng
như giáo lý Công Giáo. Lời phát biểu của Ông Ngô đình Nhu tại Đại Hội
Văn Hóa Quốc Gia nagy2 11 tháng 1 năm 1957 về Chủ Thuyết Nhân Vị cũng
cho thấy những nhận
định của Ông Nguyễn Thái không có cơ sở vũng chắc. Ông Ngô Đình Nhu nói:
“Chủ
thuyết đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy
mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm nầy chẳng phải của
riêng một giống người nào,một quốc gia nào, hay một đảng phái nào mà là
của mọi người. Ở Tâ Phương, “Tinh thần của Phúc Âm” được xem như phương
tiện để nhận thức về giá trị nhân bản của con người và tại Á Châu, những
nguyên
tắc tôn trọng con người nhân bản nằm trong kinh Vệ Đà, Kinh Upanishads,
trong sách Mạnh Tử, và ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam”
(12-1-1957, Cách mạng Quốc Gia)
Và khi trả lới Phóng Viên Báo Toronto Globe and Mail, hồi đầu năm 1963 và được in lại trong Nguyệt San Gió Nam, Ông Nhu đã xác định rõ rang:
“Tôi
phải nói ngay rằng Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến
cái Nhân Vị Công Giáo hiện đang được giảng dạy bởi
các tổ chức Công Giáo tại Miền Nam Việt Nam (Ông Nhu muốn ám chỉ Trung
Tâm Huấn Luyện Nhân Vị Vĩnh Long do Giám Mục Ngô Đình Thục chủ trương).
Đây không phải một lời chỉ trích, nhưng là lời xác định về một sự thật. Hiện
nay cái học thuyết Nhan Vị mà tôi cổ võ là một nên dân chủ đấu tranh
trong đó tự do không phải là món quà của Ông Già Noel, nhưng mà là kết
quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời
sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng mà trong những
điều kiện địa lý chính trị đã được
định sẳn. chính cái quan niệm về tự do nầy đã khai mào cho toàn bộ
chương trình ACL. Hệ thống Ấp Chiến Lược nầy sẽ làm thay đổi cơ cấu
chính trị thượng tầng của chính phủ hiện tại. Điều nầy cũng phù hợp với
tinh thần của Hiến Pháp, một Hiến Pháp đặt nền tảng trên các nguyên tắc
tự do và sáng tạo. Chính vì vậy khi nói là tự do và sáng tạo tức là
chúng ta mặc nhiên loại bỏ tất cả các hình thức chính quyền hiện hữu”
(5-5-1963, tr.68)
IV- Chủ Nghĩa Nhân Vị và Chính Nghĩa Quốc Gia
Trong
suốt thời gian thử
nghiệm 9 năm tại Miền Nam Việt Nam, Chủ Nghĩa Nhân Vị đã tỏ ra rất thựxc
dụng và thuần nhất. Một số những ưu điểm nổi bất cần được nhắc lại một
cách chi tiết hơn.
Những
người từ bỏ quê hương miền Bắc và mồ mả tổ tiên, chạy vào Miền Nam vĩ
tuyến 17 chỉ để lánh
nạn cộng sản tìm tự do. Trong khi đó những người Miền Nam không chấp
nhận sự cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam đã tự nguyện ở lại Miền Nam
để cùng với người Miền bắc di cư lập ra một quốc gia mới choong61 Cộng
Sản. Như vậy chính nghĩa quốc gia của họ chính là “chống đảng Cộng Sản
Việt Nam và Cộng Sản quốc tế và chống chủ Nghĩa Cộng Sản độc tài chuyên
chế”. Chủ Nghĩa Nhân Vị là chủ tuyết tiêu biểu nhất đề cao nguyện vọng
và lý tưởng cao cả nầy của họ.
Trên
căn bản nhận thức triết học., hai chủ nghĩa Nhân Vị và Cộng Sản hoàn
toàn đối nghịch nhau. Chủ Nghĩa Cộng Sản vì đặt bản trên ý hệ duy vật
nên
dộc đoán không tưởng và không có “dụng”. Nếu chẳng may người ta ép phải
thi hành (cưởng hành), thì phải bù bằng đủ thứ công an mật vụ để ép buộ,
khủng bố mới có làm, vì cái làm đó không do từ trong phát ra, thường
trái với bản tính con người, nên chỉ có làm bao lâu còn có sự khủng bố,
ép buộc. Ngược lại, Chủ Nghĩa Nhân Vị là hệ thống triết lý đặt trên
Tâm Linh Thái Hòa tức trên nhu yếu thâm sâu của con người tất nhiên
có “dụng”, khỏi cần phải thúc đẩy từ ngoài. Vì thế Nhân Vị khác với Ý
Hệ, nhất là bái vật, ở chỗ không “dùng mưu gian đạo đức” (vì đạo đức mà
đánh lừa ‘pia fraus’, như như Cộng Sản Việt Nam đã làm với những chiêu
bài như: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”, “Lao động là vinh quang”
v.v…) Triết Gia Kim Định viết:
“Bái
vật dùng tràn ngập ‘pia fraus’ đã đành, cả đến triết lý nhiều khi cũng
không chê, thí dụ như ông
tổ triết Tây Plato cũng dùng bộn. Còn Cộng sản thì khỏi nói: luôn luôn
sống trên những lời hứa cuội (lợi hành) kèm thêm khủng bố (cưởng hành),
vì ý hệ là triết học xây trên ý niệm, không đủ sâu để khơi động nguồn
nghị lực tâm hồn, đành phải dùng những trợ lực ngoại khởi như “pia
fraus’.” (tr.173)
Một
thí dụ sau đây sẽ làm sáng tỏ thêm bản chất đối` nghịch giữa hai triết
thuyết nầy. cộng sản chủ trương muốn giải phóng con người khỏi ách nộ
lệ, không những phải
đánh đuổi thực dân, đấu tranh giai cấp mà còn phải tiêu diệt cả tôn
giáo. Vì tôn giáo là liều thuốc phiện duy trì cái lien hệ “giữa chủ và
tớ”. Để thực hành họ đã dùng guồng máy công an cảnh sát, ngăn cản và
tiêu diệt mọi sinh hoạt tôn giáo. Trong khi đó Miền Nam , người quốc gia
tự do hành đạo vì Nhân Vị chủ trương “Trời – Người – Đất” là ba quyền
lực lớn nhất trong vũ trụ và lien hệ hang ngang. Con người phải được
giải phóng mà chẳng cần phải tiêu diệt ton giáo. Người quốc gia phủ nhận
ý hệ Cộng Sản “liên hệ chủ tớ giữa trời và
người”.
Thay vì giải
phóng con người khỏi nộ lệ “Trời” thì Chủ Nghĩa Xã Hội lại đưa con
người vào vòng nô lệ “Đất” hay vật chất. Người cộng sản coi con người
chỉ là cái máy làm ra của cải nên họ đưa ra chính sách làm theo chỉ tiêu
và hưởng theo nhu cầu. Ngược lại Chủ Nghĩa Nhân Vị chủ trương tôn trọng
phẩm giá con người và phát triển nó đến mức độ cao nhất. Cho
nên thay vì thiết lập ra hợp tác xã sản xuất để bắt con người làm thay
cho con vật
như ngoài miền Bắc, thì Chính Quyền Nhân Vị chủ trương xây dựng ACL
trong đó “mỗi gia đình vô sản đều có một nóc nhà và một miếng đất sinh
hoa lợi đủ sống, tức là trang bị cho người dân môt đảm bảo thực sự cho
tự do cá nhân và thói quen tham gia việc chung [sinh hoạt dân chủ]”.
Ngoài
lý tưởng tự do no ấm, bản chất dân tộc của Chủ Nghĩa Nhân Vị còn nêu
cao ngọn cờ chính nghĩa quốc gia, lý tưởng độc lập và chủ quyền quốc
gia. Ngược lại dân chúng miền Bắc đã bị bắt
buộc phải tôn thờ một chủ nghĩa ngoại lai, Mác-xít Lê-nin-nít”, chịu lệ
thuộc vào Nga, Tàu.
V – Chủ Nghĩa Nhân Vị và Khung Cảnh Xã Hội Việt Nam
Một
ưu điểm nữa của Nhân Vị chính là giải pháp dân chủ hóa của nó rất phù
hợp với đời sống của dân chúng và khung cảnh xã hội của miền Nam Việt
Nam lúc vừa dành độc lập từ tay người Pháp. Lý tưởng thái hòa nền
tảng của Chủ Nghĩa Nhân Vị cho phép các lãnh đạo rút tỉa kinh nghiệm xây
dựng dân chủ của các nước đàn anh đi trước cũng như đúc kết một mô hình
tổng hợp các ưu điểm về phương diện cơ cấu của các mô hình dân chủ có
sẳn với nền dân chủ cổ truyền Việt nam. Hệ thống đạo đức cổ truyền Việt
Nho và những giá trị tâm linh được đề cao trong Chủ Nghĩa Nhân Vị là sức
mạnh nền tảng để tinh thần dân chủ nẩy nở và mau chóng phát triển.
Cá
cần
phải có nước mới sống được. Nhưng cá nước ngọt không sống được trong
nước mặn. Vì thế, văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc hình
thành một lối sống, một nền dân chủ. Theo Sử Gia William Durant, hơn
4,000 năm trước bộ tộc Việt đã có “một nền văn minh nông nghiệp gọi là
Việt Nho, có một hệ thống đạo đức rất hữu hiệu, chưa từng thấy xuất hiện
trong các nên văn minh khác” (1950, Q.1, tr.640). với những giá trị dân
chủ như: “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” và “dân chúng có quyền giết cả vua, nếu vua độc ác bô đạo”
(mạnh Tử. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “Phép vua thua lệ làng”. Đây là tinh thần, là những giá trị dân chủ mà Ông Diệm muốn xây dựng lại. Theo Ông Diệm, “Dan chủ là một chế độ đạo đức, rộng trong nhân dân và trong chính quyền”. Chế độ đạo đức ấy tóm gọn trong chữ “nhân” mà theo Khổng Tử, chỉ khi nào con người “khắc được kỷ, phục được lễ” thì “nhân” mới thành.
Đứng
về mặt cơ cấu, ở dưới hạ tầng cơ sở, Chính Phủ Nhân Vị đã
mô phỏng Quốc Sách Ấp Chiến Lược theo hệ thống làng xã cổ truyền Việt
Nam và trên thượng tần là một tổ chức chính phủ cộng hòa theo tổng
thống` chế kiểu Hoa Kỳ. Hệ thống làng xã cổ truyền Việt Nam, theo Giáo
Sư Nguyễn Đăng Thục thuộc Viện Đại Học Sài Gòn thì cái hệ thống làng xã
tự trị nầy cũng là hình thức dân chủ rất phổ biến trong các quốc gia Á
Châu và đặc biệt tại Việt Nam. Đây là một định chế dân chủ độc đáo, gọi
là làng hay xã, nó mang những nhân tố xã hội rất sơ khai, tồn tại và nổi
trôi với những thăng trầm của
going lịch sử đã hơn 4 ngàn năm. Giáo Sự Thục lập luận rằng:
“Nếu
chúng ta định nghĩa dân chủ là một hệ thống chính phủ do dân bầu ra để
phục vụ quyền lợi của người dân và trong hệ thống chính quyền này, quyền
lực nằm ở trong tay của dân chúng, thì chế độ làng hay xã, như hệ
thốngng làng xã cổ của Việt Nam, quả thật là một chế độ dân chủ đặc
biệtt. Điều độc đáo nhất của cái nên dân chủ sơ khai nầy chính là chỗ tự
nó hình thành, mang bản chất tự
trị, rồi lại tự nó thích nghi với một hệ thống truing ương chuyên chế
của chế độ quân chủ Á Đông. Cho nên có` thể nói quốc gia Việt Nam giống
như một hệ thống chính quyền lien bang …. Tổ chức xã hội và chính trị
của Việt Nam gồm có hai hệ thống đối lập nhau và chồng lên nhau. Ở dưới
hạ tầng là một nên dân chủ đại nghị, tự trị và đại chúng; ở trên thượng
tầng là một nền quân chủ chuyên chế, tập trung quyền lực bằng một hệ
thống quan lại. Hai định chế nầy tuy khác nhau trên căn bản nhưng lại
cùng tồn tại qua bao nhiêu
thế kỷ với biết bao nhiêu biến đổi của lịch sử, trong lúc hòa bình thịnh
vượng cũng như trong nội chiến và ngoại xâm (1958, tr.7-8).
Ông Diệm cũng xác nhận với Sử Gia Marguerette Higgins:
“Chúng
tôi có một nền dân chủ truyền thống và một hệ thống làng xã tự trị. Đó
chính là một phần của truyền thống Nho giáo với những phong tục tập quan
và các bổ phận của con người trong xã hội. Tấ
cả những
phong tục tập quán nầy không phải là những luật lệ thành văn nhưng được
truyền lại từ đời nầy qua đời khác bằng nghi lễ gia tiên hay đạo thờ Ông
Bà. Chúng tôi chủ trương tìm lại những cội nguồn nầy để tái thiết xứ sở
chúng tôi” (Higgins, tr.166)
Tóm lại, cái lối song hay cái sinh hoạt dân chủ của Chủ Nghĩa Nhân Vị muốn mang lại cho dân chúng Miền Nam Việt Nam chính là những nét văn hóa truyền thống Việt Nam mà họ hằng yêu mến tôn trọng. Đấy là một lối sống nhàn
tản phong ưu, trọng nhân nghĩa hơn là lý lẽ, và trân quí các giá trị cộng đồng. Vì
thế họ hăng hái tự nguyện xây dựng và bảo vệ nó. Đúng như triết gia Kim
Định giải thích, vì những giá trị dân chủ nầy đã xuất phát từ nhu yếu
thâm sâu của con người, tất nhiên có “dụng”, không cần thúc đẩy từ bên
ngoài. Đây chính là ưu điểm của giải pháp Nhân Vị khi đem so sánh với
các gải pháp dân chủ hóa khác.
Nói
đến Chủ ghĩa Nhân Vị mà không nói gười khai sinh ra nó, người lãnh đạo
và đích thân
chọn lựa giải pháp và thử nghiệm nó, thì quả là một thiếu sót. Nhất là
quan niệm cho rằng “dân chủ” chỉ phát triển nếu quan niệm thiện ích
chung mỗi ngày một ăn sâu rộng trong dân chúng và trong chính quyền. Có
nghĩa là giải pháp dân chủ hóa thành công hay không phần lớn nhờ vào
“quan niệm thiện ích chung” của người lãnh đạo có “sâu rộng” hay không.
Người lãnh đạo phải là người làm gương dẫn đượng. Bản thân Ông Ngô Đình
Diệm là một người nổi tiếng về đạo đức và khí tiết chính trị (Quách Tòng
Đức & Lâm Lễ Trinh 2005). Đây chính là ưu điển nổi bật của
Giải Pháp Dân Chủ Hóa Việt Nam của Nhân Vị.
Ngoài
“quan niệm thiện ích chung” mà người lãnh đạo cần phải có, viễn kiến về
chiến lược thực hiện dân chủ cũng vô cùng quan trọng. Anh em Ông Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã chọn giải pháp “cơm no áo ấm”. Một trong
những mục tiêu của Quốc Sách Ấp Chiến Lược là
“Xây
dựng tại nông thôn một vùng thịnh vượng với kinh tế cơ bản, mỗi gia
đình vô sản đều có một
nóc nhà và một miếng đất sinh hoa lợi đủ sống, tức là đã trang bị cho
đại đa số dân chúng một bảo đảm thực sự cho tự do cá nhân và thói quen
tham gia việc chung”
Nói một cách đơn giản là nếu
chính quyền có thể đem đến cho đại đa số dân chúng những nhu cầu vật
chất căn bản hằng ngày (cơm no áo ấm) tức là đã đem tự do dân chủ cho họ
rồi. Tục ngữ Việt Nam có câu “Có thực mới vực được đạo”, có nghĩa là khi bụng đói thì còn hoio7 sức
đâu mà nghĩ đến đạo nghĩa! Hay là “Phú quý sinh lễ ngĩa”, nghĩa là có của cải rồi mới học làm sang, cũng có nghĩa là nếu tối ngày lo kiếm sống thì làm gì còn có thì giờ để
nghĩ đến văn chương nghệ thuật, đến giá trị tự do dân chủ v.v… Tóm lại
đây là một sự lựa chọ đúng đắn à là một quy luật chung trong thiên hạ.
Người Roma nói: “Primo vivere, deinde philosophare”. Đã có lần Giáo Sư
Tôn Thất Thiện viết: “Ta không nên quên rằng Đức Phật Thích Ca, sau một
thời gian sống không thiết đến ăn uốn, bị ngất xỉu và sau đó, Ngài đã
nhận
thấy sự cần thiết nuôi dưởng cơ thể nếu muốn có sức để tìm Đạo” (2005)
Nhưng
tại ssao vấn đề “Xóa đói giảm nghèo” đã được thế giới chú trọng đến từ
lâu nay vẫn không thực hiện được? Giải pháp”Dân Chủ với Kinh Tế Thị
Trường Tự Do” phát triển Thế Giới Thứ Ba của Liên Hiệp Quốc vào thập nên
1950s bị thất bại. Vào thập niên 1980s, Ngân Hàng Thế Giới (World Bank)
và Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund – IMF đã đứng ra
vận động phát
triển dân chủ với giải pháp “Basic Needs Approach” (Thực hiện các nhu
cầu căn bản) cũng chẳng đi đến đâu. Nhiều hội nghị quốc tế về xóa đói
giảm nghèo được World Bank đứng ra triệu tập và trở ngại và trở ngại
nhất vẫn là hai vấn đề “Delivery on the ground” (Làm thế nào đưa đến tận
tay người nghèo) và
“Targeting” (Làm thế nào chọn đúng khu vực, nơi cần giúp đở), vì nạn tham nhũng gây ra! Những người có trách nhiệm, từ các tổ chức quốc tế đến chính quyền địa phương, đã
không làm tròn trách nhiệm vì chưa “khắc được kỷ và phục được lễ”!
Dưới
sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ 2 năm trời ngắn ngủi miền
quê Nam Việt Nam đã có một đời sống ấm no. Chính Phủ Ông Diệm đã chọn “gải pháp no cơm ấm áo” cho
95% dân chúng ở thôn quê làm chiến lược phát triển quốc gia, với quyết
tâm của Ông giải quyết cho bằng được hai trở ngại “Delivery” và
“Targeting” qua công cuộc cải cách điền địa và thực hiện vấn đề “Tái
phân phối lợi tức quốc gia” với khẩu hiệu “ cá nhân và cộng đồng đồng
tiến”. Cho nên Chính Phủ của Ông Diệm được tổ chức dưới hình thức một
chính phủ của phúc lợi (good’ government), vì trong “no cơm ấm áo” đã có
sẳn mần mống của “dân chủ tự do” (Phú quý sinh lễ nghĩa). Sự thành công
nầy là do bản thân Ông Ngô Đình Diệm đã khắc được kỷ phục được lễ, làm gương cho quần chúng. Ông đã chọn con đường hy sinh để bênh vực giá trị con người “Khi sự thể đáo đầu,phải xem NHÂN hơn sự sống, nên có lúc
giết cái thân mình, để vì nó mà thành được đức nhân!”. Khổng Tử thật
chính xác khi gọi những người nầy là “chí sĩ”. Đại Sứ Mỹ F. Nolthing
viết một lá thư cho Sử Gia M. Higgins, biểu lộ lòng cảm phục của ông đối
với một quân tử Nho Giáo:
“Tôi chẳng biết một quan lại Nho Giáo là cái quái gì, nhưng nếu Ông Diệm là một Nho quan, tôi cũng muốn giống Ông ta. Trong
hơn hai năm rưởi làm việc và quan sát kỹ lưỡng Ông ta, tôi thấy Ông ta
quả là nhà lãnh đạo đầy thiện tâm, chính
trực, lại rất can trường, và được tôn kính. Mặc dầu tôi đã mất rất nhiều
thì giờ và gặp phải rất nhiều khó khăn mỗi khi phải thương lượng với
Ông ta, nhưng lúc nào tôi cũng kính trọng và khâm phục cái tính nhẫn nại
cương quyết của Ông ta lúc phải theo đuổi một mục đích nào đó.
Tôi cũng rất ngạc nhiên về con người quân tử và lòng nhân ái của Ông
ấy. Ông ấy thường dành ra một ngày rưởi để nghỉ lễ Giáng Sinh và đó cũng
là ngày nghỉ duy nhất của Ông ấy trong năm, đi đến những tiền đồn xa
xôi nhất để ăn mừng
Lễ Giáng sinh với các binh sĩ ở đó” (1962, tr.162)
VI- Chủ Nghĩa Nhân Vị và Vấn Đề Chính của Việt Nam Hiện Nay.
Việt
Nam nay đã hòa bình và đi vào phát triển đã gần 20 năm rồi. Nhưng dân
chúng vẫn còn đói khổ, vẫn chưa được hưởng những quyền tự do căn bản.
Hiện nay Chủ Nghĩa xã hội đã lỗi
thời, việc tìm kiếm một mô hình dân chủ hóa hữu hiệu để thay thế, là một
nhu cầu cấp thiết. Từ ngày Ông Ngô đình Diệm chết (1963) đến nay các
nhà lãnh đạo cũng như trí thức Việt Nam nói chung vẫn còn tiếp tục tìm
kiếm câu trả lời cho một tiến trình dân chủ kinh tế nhằm giải quyết cơn
khủng hoảng có thể đưa đến sự hưng vong của toàn thể dân tộc. Đặc biệt
trong những ngày tháng gần dây, trong và ngoài nước, các nhà trí thức và
lý thuyết gia đóng góp ý kiếnn càng ngày càng d9ng6 đảo. Tiêu biểu như
Tiến sĩ Phan Đình diệu, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Tụ (Hà
Sĩ Phu) Tiến Sĩ Lê đăng Doanh, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Nghĩa v.v…
Trong
buổi nói chuyện tại Ủy Ban Tổ Chức Trung Ương ĐCSVN vào ngày 2 tháng 11
năm 2004, TS Phan Đình diệu lên tiếng kêu gọi đổi mới tư duy. Ông cho
rằng “Mô hình chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học đã bị thực tiễn bác bỏ”. Theo TS
Diệu, nếu ĐCSVN vẫn còn tiếp tục duy trì “định hướng XHCN kiểu Mác Lê”
thì Việt Nam vẫn còn tiếp tục bị bế tắc trong cơn khủng hoảng hiện tại”.
TS Diệu đồng thời ca ngợi mô hình Xã Hội Dân
Chủ” (XHDC) tại các nước Bắc Au là “Chủ Nghĩa Xã Hội của Thế Kỷ 21” với mục tiêu “tự do, công bằng, đoàn kết, chắc chắn sẽ có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại, rất đáng được chúng ta quan tâm”
Thật ra cái mô hình “XHDC” tại các nước Bắc Âu như Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, đã và đang được các chuyên gia, trí
thức trong và ngoài nước cổ võ như mô5 mô hình thích hợp để thay thế mô
hình “Kinh Tế Thị Trường theo định hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa” nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng xã hội Việt Nam hiện
nay. TS Nguyễn xuân Tụ (Hà Sĩ Phu) nhận xét rằng: “Phương án xã hội dân
chủ là phương án trung dung. Tuy trung dung nhưng vẫn đòi hỏi sự dũng cảm và thật lòng, chứ không dùng mẹo được. Cha
Ông chúng ta bảo “Thật thà là cha quỷ quái”. Kinh tế thị trường theo
định hướng dân chủ thế thôi, dân chấp nhận ngay, vì như thế cũng chính
là dân chủ đa nguyên pháp trị”. Và một chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn
Xuân Nghĩa cũng nghĩ rằng ĐCSVN phải thay đổi tư duy và cơ cấu. Phải
chấp nhận Kinh
Tế Thị Trường với Định Hướng Dân Chủ. Như về kinh tế phải để tự do kinh
tế từ dưới bùng lên, giải phóng người dân, tự do sinh hoạt không hạn
chế, đối xử công bằng giữa các địa phương. Về chính trị, nhà nước phải
giảm bớt sụ can thiệp vào guồng máy kinh tế nhưng tăng cường chức năng
là luật và thi hành luật và chấm dứt độc quyền cai trị. (RFA, 6-7-05)
Nội dung trong mô hình “Xã Hội Dân Chủ” tại các nước Bắc âu mà các trí thức và chuyên gia Việt Nam
đang cổ võ, có thấp thoáng kèm theo hình ảnh con người có “tình và chí” như “dũng cảm”, “thật lòng”, đoàn kết”, “trách nhiệm”, “trong sáng”, vân vân … Nhưng theo Ông Hà Sĩ Phu thì
“Đoàn
kết là tập hợp những yếu tố khác nhau, các yếu tố đó muốn gia nhập khối
đoàn kết chung, thì anh nào cũng phải khoan dung. Đảng khoan dung cho
những người khác Đảng, và những người khác Đảng cũng phải khoan dung với
Đảng. Chứ đây không phải là sự khoan dung của người trên với người
dưới, của kẻ cầm
quyền đối với người không có quyền. Nghĩa là cùng bình đẳng mà khoan
dung cho nhau, chứ không có chuyện Đảng thống soái hết rồi mở lòng ban
sự khoan dung cho người nầy người nọ như vua chúa phong kiến (RFI,
2005).
Như vậy, liệu khi đưa vào Việt Nam thì cái hình ảnh con người có “tình và chí” còn hiện diện trong mô hình XHDC nầy hay không?
Nếu không còn, thì mô hình nầy lại chỉ là mớ lý thuyết suông giống như
các mô hình khác, đặc biệt như Hiến {háp 1992 của Việt Nam hiện giờ, chỉ
là một mảnh giấy không
hồn. Điều 69 Hiến Pháp quy định “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu
tìnhtheo qui định của pháp luật”. Trên thực tế, chính quyền Việt Nam đã
vi phạm trầm trọng điều 69 của Hiến Pháp bằng điều 4 của Hiến Pháp, do
chính họ soạn thảo và ban hành. Là một lý thuyết suông, “Xã Hội Dân Chủ”
Bắc Âu cũng lại giống như “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”, thiếu “tình và chí” nên
không có khả năng huy động được những nghị lực thâm sâu của con người.
Và vì muốn “cưởng hành”,
như triwet61 gia Kim Định đã nói, lại phải dùng đến “mưu gian đạo đức”
như lời hứa cuội, kèm thêm khủng bố như TS Nguyễn Xuân Tụ vừa trình bày.
Tóm lại, đúng như Chủ Nghĩa Nhân Vị chủ trương, con người nằm trong cơ cấu mới là nguyên nhân cốt cán. Chuyển đổi cơ cấu chỉ là chữa bệnh ngoài da.
Để chứng minh, sử gia, ĐCSVN cứ giữ nguyên mô hình “Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” nhưng hãy đưa ra một thành phần
lãnh đạo thực sự “dũng cảm, thật lòng, đoàn kết, trách nhiệm, trong sáng, vân vân…” để làm gương dẫn dắt quần chúng. Trong trường hợp những người lãnh đạo không đủ nghị lực và can đảm của những con người đã tu thân để thực hành các đức tính nầy, thì hãy nhờ tới nhân dân và cơ quan truyền thông tiếp sức, bằng cách cho họ quyền TỰ DO thực sự qui định trong điều 69 Hiến Pháp, để phê phán, khuyến khích và can ngăn lãnh đạo đừng làm việc hại dân hại nước. Dược như vậy, tôi tin rằng chỉ trong một thời gian
ngắn, mộ hình “Định Hướng XHCN” mà Đảng chọn, sẽ không thua mô hình “Xã Hội Dân Chủ” Bắc Âu.
Nếu
đúng, thì cái giải pháp con người Bắc Âu nầy cũng giống giải pháp Nhân
Vị mà Ông Diệm và Ông Nhu đã cổ võ hồi giữa thế kỷ 20, là mô hình “Xã
Hội Dân Chủ Nhân Vị” với những sắc thái đặc biệt của nền văn hóa cổ
truyền Việt Nam, là “một chính quyền của Phúc Lợi” (Good Government) đã
được thử nghiệm ở Miền Nam Việt Nam từ 1954-1963: kinh tế thị trường với
sự can thiệp
mền dẻo của một chính phủ phúc lợi, thực hiện công bằng xã hội và dân
chủ thực sự ở hạ tầng cơ sở với định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu
trúc. Trọng điểm của chiến lược dân chủ hóa Nhân Vị là từ dưới bung lên
như TS Nguyễn Xuân Nghĩa vừa trình bầy. Tuy nhiên, Ông Diệm nhấn mạnh
rằng mô hình nầy hữu hiệu là vì được xây dựng trên những giá trị độc đáo
của Văn Hóa: (a)”nó được dung hòa với thực tại” và (b) “quan niệm thiện
ích chung được những người trong chính quyền và ngoài dân chúng thực sự
tôn
trọng”.
Trong cuốn sách Democracy and Culture, lý thuyết gia về Dân Chủ David Easton cũng viết:
“Muốn
hiểu rõ được cái mức thực dụng và hữu hiệu của một hệ thống chính trị,
chúng ta cần phải nhìn nhận một sự thật hiển nhiên, đó là, tất cả những
gì xảy ra trong nội bộ của guồng máy chính trị đều do nỗ lực của những
người nằm trong guồng máy đó, đương đầu với hoàn thực tại đang
thay đổi”.”Much light can be shed on the working of a political system
if we take into account the fact that much of what happens within a
system has its birth in effort of the members of a system to cope with
the changing environment” (1990)
Như
vậy Ông Ngô Đình Diệm và David Easton đều có cái nhìn giống nhau về
những vấn đề mà các chuyên gia và trí thức Việt Nam đang tranh cãi. Câu
trả lời: múc độ hữu hiệu của một mô hình chính trị không phải là do CƠ CẤU mà là do CON NGƯỜI ở trong cơ cấu ấy.
VII –
Kết Luận.
Chủ
Nghĩa Nhân Vị được xây dựng trên căn bản Tâm Linh: đức nhân và lý tưởng
Thái Hòa của Việt Nho. Đứng trên mặt triết học nhận thức, nó nhận diện
và đề cao giá trị và vị trí của con người. Là một chủ thuyết chính trị,
nó chủ trương phát triển giá trị và vị trí nầy đến mức cao nhất; chính
quyền có bổ phận tạo điều kiện thuận lợi và làm gương để hướng dẫn dân
chúng (cá nhân và cộng đồng) đạt
đến mục tiêu nầy.
Vì
thế, Chủ Nghĩa Nhân Vị khác hẳn với khuynh hướng duy tâm của Tây Phương
và đối đầu với Duy Vật của Karl Marx, là lý thuyết suông không thức
dụng và khoa học (Nguyễn Xuân Hồng 1956, tr.98). Dựa trên lý tưởng Thái
Hòa, Ông Diệm đã đưa ra một mô hình mới lạ mà Ông gọi là “con đ7o72ng
của tiến bộ”. Đó là một tổng hợp của những giá trị tốt đẹp nhất của Âu
Tây và Á Đông: trên thượng tầng cấu trúc quốc gia là một chế độ dân chủ
pháp trị kiểu Tây
Phương được điều hòa để phù hợp với thực tại của đất nước bằng một bản
hiến pháp dự trù dành cho hành pháp nhiều quyền lực cần thiết. Ở hạ tầng
cơ sở là một nên dân chủ thật sự, với một hệ thống ấp Chiến Lược mô
phỏng theo hình thức làng xã cổ truyền Việt Nam và tiến dần đến tự trị
về mọi mặt.
Hoài bão của hai người khai sinh ra chủ Nghĩa Nhân Vị là muốn chuẩn bị để mở đường đưa xã hội Việt Nam tiến
vào kỷ nguyên hậu kỹ nghệ qua việctai1 trang bị cho mỗi con người Việt Nam một đời sống đạo đức, để xây dựng lại và phát triển nguồn vốn xã hội đã
bị phá sản sau những năm dài dô hộ của Tàu, Tây, và nhất là hậu quả
“đào tận gốc, tróc tận rễ” do XHCN của người Việt Nam Cộng Sản để lại.
Chủ Nghĩa Nhân Vị muốn dẫn đường đưa con người Việt Nam trở về mái nhà
thân quen của họ, đó là cái xã hội có một hệ thống đạo đức rất hữu hiệu,
một cuộc sống phong lưu nhàn tản, là di sản văn
hóa vĩnh cửu của người Việt Nam.
Dù
Chủ Nghĩa Nhân Vị mới chỉ được thử nghiệm trong một thời gian ngắn ở
miến Nam Việt Nam, nhưng trong lãnh vực lý thuyết hàn lâm, Chủ Nghĩa
Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan trọng vào công cuộc phát
triển con người nói chung và đặc biệt là giải pháp dân chủ hóa đặt trên
căn bản “sở hữu hóa vô sản – cơm no áo ấm”. Chủ Nghĩa
Nhân vị còn cống hiến một căn bản tư duy mới để dung hòa tư tưởng “ai
thắng ai” của
hệ-thống triết học duy lý niệm. Muốn chung sống hòa bình, cùng nhau tồn
tại và tiến bo6, Chủ Nghĩa Nhân Vị cổ võ cho một hệ thống tư duy xây
dựng trên lý thuyết Tâm Linh, THÁI HÒA.
Mô
hình “con người biết tu thân” của Chủ Nghĩa Nhân Vị đưa ra nhằm giải
quyết tận gốc mọi khủng hoảng kinh tế xã hội và chính trị trong đời sống
hằng ngày, đáng được các nhà làm chính sách tham khảo kỹ lưỡng. Cuối
cùng, Chủ Nghĩa Nhân Vị là một đóng góp quan trọng vào ngành chính trị
học đặc biệt là
vấn nạn về dân chủ hóa tại các quốc gia lạc hậu và nghèo khổ. Giải pháp
mà Ông Diệm đưa ra là xây dựng một chế độ (dân chủ) đạo đức.Chiến
lược xây dưng dân chủ được thực hiện bằng hai hai cuộc cách mạng xẩy ra
cùng một lúc, với dân-chủ hình thức ở thượng tầng cấu trúc và dân chủ
thật sự ở hạ tầng cơ sở. Chiến lược nầy vẫn còn giá trị thực hành, có
thể giải quyết vấn đề dân chủ hóa và chiến lược “xóa đói giảm nghèo” tại
Việt Nam hiện nay, đáng được mọi người lưu tâm.
Tại
sao chúng ta lại phải đi mãi đến Bắc Âu để tìm kiếm một mô hình, trong
khi nó nằm sẳn trong kho tàn của Tổ Tiên, sao
lại không lấy ra mà xử dụng? Tại asao lại phải hướng ra ngoài, đi khắp
thế giới tìm một “lý thuyết suông” để thử nghiệm? Ở miền Nam (1955-1963)
trong các khu dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược, vân vân … người
dân nghèo đã từng có được một mảnh ruộng, một miếng vườn, một căn nhà và
một đời sống yên bình ấm no, con cái được ăn học, đau ốm đã
có nhà thương thí. Có phải đây là cái xã hội mà chúng ta đang mong muốn
thực hiện? Dẫn chứng trên đây cũng cho thấy Ông Diệm đã “bắt mạch” đúng
bệnh trạng của Việt Nam và liều thuốc “chủ Nghĩa Nhân Vị” đã tỏ ra hữu
hiệu, ít là trong lãnh vực kinh tế xã hội. Nhưng có lẽ “Bụt nhà không thiêng” nên người ta không ngó ngàng gì đến cái di sản dân tộc nầy? Sẽ không bao giờ tìm được một mô-hình hữu hiệu một khi con người lãnh đạo của Việt Nam chưa biết tu thân, tề gia.
Đối với các bạn trẻ, thế hệ lãnh đạo tương lai của dân tộc, Chủ Nghĩa Nhân Vị là một tài liệu
tham khảo hữu ích và cần thiết cho việc học tập và tìm kiếm những giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam hiện nay. Di sản tiền nhân là chỗ dựa vũng chắc và phù hợp với tình tự dân tộc. Chối bỏ nó là đi xa gốc rễ, sẽ mất định hướng và lạc lối. Dưa trên di sản tốt đẹp của Cha Ông, các bạn sẽ tạo nên một hệ thống lãnh đạo mới với một định hướng rõ
rệt. Ngoài ra bài học lịch sử của thế kỷ vừa qua nhắc nhở các bạn rằng: độc lập, tự do và dân chủ không phải là món quà của Ông già Noel và không
có một chế độ chính trị nào có thể đem lại cho mình nếu tự mình không
bền bỉ đấu tranh với chính mình, tôn trong nhân phẩm của mình và giá trị
thiện ích của cộng đồng. Tìm về cội nguồn chính là mở lại con đường truyền thừa lãnh đạo đất nước.
Cuối
cùng
là một bài học từ cái chết của hai người sinh ra Chủ Nghĩa Nhân Vị:
Lãnh Đạo Việt Nam trong tương lai cần phải lấy lý tưởng THÁI HÒA làm căn
bản thiết lập ra những định chế hữu hiệu làm đối trọng (counter
banlance) với loại chính trị “Thực Tiễn [Realpolitik]”, để ngăn ngừa
những hành động phi dân chủ, phi nhân bản và coi thường luật pháp của
những kẻ cuồng tín lạm dụng quyền lực. Các định chế nầy còn ngăn ngừa sự
phung phí nhân vật lực của đất nước và sự gián đoạn về lãnh đạo quốc
gia trong tương
lai.
Ông Cao Xuân Vỹ
nói với tôi: “Không có Ông Diệm,không có Việt-Nam Cộng-Hòa”
(17-3-1995). Thú thật lúc đó tôi cho rằng “Ông Vỹ nói hơi quá chăng?”.
Nhưng khi nhìn lại lịch sử, đặc biệt khi đọc lại hồi ký của Ông Bảo Đại
và những tài liệu về Bang Giao quốc Tế tong giai đoạn Chiến Tranh Lạnh
1945-1975, với các văn kiện như Hiếp Định Genève 1954, Hiệp Định Ba Lê
1973, The Pentagon Papers (Vol. I) và các “memos” ghi lại nội
dung những cuộc đối thoại giữa Ngoại Trưởng Henry Kissinger của Hoa Kỳ
và TT Chu Ân Lai
của Trung Cộng, thì câu nói nầy hoàn toàn có căn cứ. Ví dụ, nếu Ông ngô
Đình Diệm không chịu nghe theo yêu cầu của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng
(Nhị Lang 1990), quyết tâm truất phế Bảo Đại và biến Nam Việt Nam thành
một nước Cộng Hòa, thì cuộc tổng tuyển cử tái thống nhất Việt Nam được
người Mỹ trù liệu trong Hiệp Định Genève 1954, đã diễn ra vào tháng Bảy
năm 1956 và miền Nam Việt Nam đã nằm dưới ách đô hộ của Hồ Chí Minh và
đảng CSVN rồi. Thật ra Ông Vỹ muốn ám chỉ rằng sự hiện hữu của Việt
Nam Cộng Hòa đã giúp cho dân chúng miền Nam
thoát khỏi cái họa đẩm máu của cuộc “cải cách ruộng đất”, và trí thức
miền Nam thaot1 đước vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” mà ĐCSVN đã thi hành ở
ngoài Bắc. Ngoài ra, miền Nam Việt Nam đã được hưởng thêm 20 năm sống
trong tự do, trong khi ở ngoài Bắc dân chúng sống trong tù ngục với chế
độ bao cấp, không khác gì súc vật. Nhưng sự thật lịch sử cũng không thể quên được, đó là “Không
có Ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô đình Nhu, không có Chủ Nghĩa Nhân Vị”,
và tôi cũng không có được cái vinh dự viết và gởi bài nầy đến quí vị độc
giả,
những người đã và đang trăn trở thao thức vì vận nước nổi trôi!
E. Mounier nói “Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho những kẻ cứng đầu và một hòn đá đặt đúng chỗ cũng có thể xoay chuyển cả một gòng nước”. Rất tiếc, Ông Diệm và Chủ Nghĩa Nhân Vị của Ông đã xuất hiện ở một nơi và vào một thời điểm đáng lẽ không nên xuất hiện. Nhưng Ông đã hạ quyết tâm, “chọn con đường hy-sinh để bênh
vực phẩm giá con người”. Đó là những gì mà Ông đã
thức hiện được trong hoàn cảnh hoàn toàn cô lập và khó khăn của miền Nam
Việt Nam lúc bấy giờ, chỉ còn nhờ vào sự quyết tâm và khả năng lãnh đạo
của Ông và cần phải lưu lại trong sử sách một cách công bằng và trung
thức.
Nhà thơ W. H.
Auden viết: “Lịch sử đối với kẻ bại trận, chỉ có thể ngửa mặt lên than
“Trời”, nhưng chẳng giúp được gì cho họ mà cũng không thể tha thứ cho
họ”. Tuy nhiên tôi tin rằng, người ta
có thể hủy diệt Chủ Nghĩa Nhân Vị và hai người khai sinh ra nó, nhưng
không thể cướp đi những giá trị thuộc về họ. Do
đó trên căn bản đạo đức nghề nghiệp, các sử gia có bổn phận đem trả lại
những gì thuộc về hai Ông Ngộ Đình Diệm và Ngô Đình Nhu và nền Đệ Nhất
Cộng Hòa.
Viết cho Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm 2007
***
Tài Liệu và Sách Tham Khảo.
*Phần nầy quá dài. Tựu trung ghi lại các sách
mà Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn đã tham khảo.
*Xin
cảm Ơn các Quý Vị đã bỏ chút thời gian đọc bài viết của Tiến Sĩ Nguyễn
Ngọc Tân mà tôi đã bỏ chút thì giơ ra đánh máy lai để gởi đến các Quý
Vị, không có cơ hội nhận được ĐẶC SAN 2007 của HỘI ÁI HỮU NGƯỜI VIỆT
QUỐC GIA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét