Mấy ngày nay, tôi cứ nghĩ đến anh Nguyễn Chí Thiện. Cứ quên
đi một lúc lại nhớ; lại nghĩ: Anh Nguyễn Chí Thiện đã đi rồi. Sáng nay, khi
nghĩ về anh, tôi chợt nhớ một câu thơ cổ, “Il est mort, le vieux orgeuil chêne
de la forêt.”
Ðã chết rồi, cây sồi già kiêu hãnh trong rừng sâu. Tôi không
còn nhớ thi sĩ nào là tác giả vì chả bao giờ được học văn chương Pháp. Câu thơ
này tôi nghe từ hồi học lớp đệ tứ, đệ tam, khi một thầy giáo Pháp văn lấy làm
thí dụ cho một bài dạy văn phạm. Hoặc có thể do một thầy giáo dạy Việt Văn cho
thí dụ khi dạy về cách viết văn cho hay. Anh Nguyễn Chí Thiện có lẽ lại biết,
vì anh đã học nhiều tiếng Pháp hơn tôi. Nhưng anh đã mất rồi. Nếu thời nhỏ học
trường Pháp chắc nhiều bạn phải biết thi sĩ nào là tác giả câu thơ này.
Nguyễn Chí Thiện đã qua đời. Anh đúng là hình ảnh cây sồi
già kiêu hãnh trong rừng thẳm. Nhưng nghĩ lại, không nên ví Nguyễn Chí Thiện với
một cây sồi, một loại cây miền ôn đới. Một thi sĩ Việt Nam có thể ví anh như
cây hoa gạo mọc trên đồi. “Tháng Tư hoa gạo đỏ - Mở cánh ngập đồi xa - Máu hồng
tung tóe vỡ - Chân mây thở sáng lòa.” Nhưng chắc Nguyễn Chí Thiện không thích
hình ảnh cây hoa rực đỏ, của một thi sĩ mà anh khinh. Anh là một người giản dị,
mộc mạc, không phô trương hào nhoáng như cây hoa gạo. Cây hoa gạo cũng không
thuộc loại gỗ tốt. Chắc ví anh như một cây đa thì thích hợp hơn. Cây đa vững
chãi, bền bỉ, chung thủy, bám lấy mặt đất. Ðó là Nguyễn Chí Thiện. Ðã chết rồi,
cây đa cổ thụ ở đầu làng tôi!
Chúng tôi chưa thân đến độ nói chuyện với nhau về sự sống và
cái chết. Không bao giờ hỏi nhau đến cuộc sống riêng tư. Chưa bao giờ ngồi nhậu
chung, hoặc la cà ở quán cà phê. Mỗi năm chắc chỉ đi ăn trưa với nhau ba bốn lần,
không Song Long thì cũng Nguyễn Huệ. Mà đi ăn với anh thì buồn lắm; anh chỉ nhấp
qua vài miếng rồi ngưng, coi việc ăn uống là một điều bất đắc dĩ. Tôi chả bao
giờ hỏi chuyện về thơ của anh, mà anh cũng vậy. Chỉ có mấy lần nói đến tập hồi
ký “Hỏa Lò” mà tôi thấy rất hay. Và anh thì góp ý kiến về những bài bình luận
tôi viết. Tôi không thể kể mình là một người bạn thân của anh. Chỉ có một mối
giao tình đạm bạc theo lối người xưa: “Kính yêu từ trước đến sau - Trong khi gặp
gỡ biết đâu duyên giời.” Gặp gỡ nhau, thường chỉ nói đến những mối ưu tư cùng
chia sẻ: Nước Việt Nam, người Việt Nam, tương lai Việt Nam. Ðó là những chuyện
chung, của bao nhiêu người, không chỉ riêng chúng tôi. Anh luôn luôn có ý kiến,
rất rõ ràng, rất quả quyết, nhưng không cố chấp. Lòng anh cũng thanh thản,
không bày tỏ một nỗi thù hận, chua cay nào.
Lần chót anh với tôi nói chuyện lâu là vì anh đọc bài của
tôi in trên Ðặc San Bắc Ninh, cách đây ba tháng. Vì bài viết về quá trình Hán
hóa miền Nam Trung Quốc đụng tới mối quan tâm chung: Quan hệ Việt Nam và Trung
Quốc hiện nay. Chúng tôi đã nhiều lần bàn bạc, cùng bày tỏ niềm vui khi nói đến
những đàn anh như anh Tô Hải, những người cùng tuổi như Nguyễn Huệ Chi, hoặc
các bạn trẻ hơn như Ðiếu Cầy, Tạ Phong Tần. Và chúng tôi cùng thấy những người
quá lo lắng nghĩ rằng Việt Nam sẽ mất vào tay Trung Quốc là sai; không có gì phải
lo cả. Cứ nhìn lại lịch sử nước Việt Nam thì biết. Anh góp ý kiến với tôi về cuốn
sách tôi đang viết: Vì sao sau một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam vẫn
còn, nước Việt Nam không mất. Anh cũng đồng ý, đó là một phép lạ lịch sử. Nhưng
anh đề nghị cứ gọi đó là phép lạ Việt Nam, không cần nói “lịch sử” nghe nó to,
nó lớn quá. Anh vốn là người khiêm tốn; nhưng đồng ý đó là một phép lạ.
Trong Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim viết: “Hết thời Bắc
thuộc rồi thì người Giao Châu ta có một cái nghị lực riêng và cái tính chất
riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn với người Tàu.” Dân tộc ta vẫn còn vì “cái
nghị lực riêng và cái tính chất riêng.” Nhưng nó là những cái gì? Anh Nguyễn
Chí Thiện đồng ý là người miền Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, thực ra giống người mình,
khác với người Hoa Bắc. Tần Thủy Hoàng là người đầu tiên sai nửa triệu quân xuống
xâm chiếm vùng Hoa Nam và bắt đầu việc đồng hóa. Các triều Hán, triều Ðường tiếp
tục, kéo dài 2,000 năm. Tất cả những người “anh em họ xa” của chúng ta nay biến
thành người Trung Hoa hết. Tại sao dân Việt Nam không mất gốc, không mất nước?
Lê Thành Khôi, Lê Mạnh Hùng đều nhắc đến một yếu tố là người mình còn giữ được
tiếng nói. Keith Taylor giải thích thêm với yếu tố tôn giáo. Nhưng tiếng nói và
tín ngưỡng ảnh hưởng đến sức đề kháng của dân tộc Việt Nam như thế nào? Nguyễn
Chí Thiện cũng nghĩ là mình nên tìm hiểu thêm những lý giải cho “cái nghị lực
riêng và cái tính chất riêng” như cụ Lệ Thần đã viết. Anh còn khuyên tôi nên viết
thêm về trường hợp những nước như Nam Hàn, Miến Ðiện, Nhật, họ cũng vẫn giữ được
độc lập như dân mình. Tôi đã làm theo ý kiến đó.
Rất tiếc, anh Nguyễn Chí Thiện đã qua đời. Nếu anh còn sống,
hôm nay tôi sẽ nói với anh một cách thành thật, rằng nước Việt Nam còn được đến
bây giờ là vì tổ tiên chúng ta từ 2,000 năm trước đã có những người cứng đầu
như anh. Có những người bướng bỉnh, nhất định làm người Việt, không chịu làm
người Hán. Trong hàng ngàn, hàng vạn người mới có một người “ngoan cường, bất
khuất” như thế. Nhưng hào kiệt đời nào cũng có. Cho nên, dân tộc Việt Nam vẫn
còn đến bây giờ. Và sẽ không bao giờ mất.
Trong đời sống bình thường, không ai muốn đóng vai anh hùng.
Sống giữa những cái sai, cái ác, người ta vẫn lẳng lặng làm thinh. Vì người ta
biết sau cùng những thứ gian tà, độc ác sẽ chấm dứt, sẽ bị lịch sử tiêu diệt.
Hoặc vì người ta nhát, không muốn “đa sự.” Nhiều khi những người cương cường bất
khuất còn làm cho người chung quanh sợ hãi, rồi vì thế, bực mình.
Như hồi hai mươi tuổi Nguyễn Chí Thiện thấy học sinh được dạy
rằng Nhật Bản đầu hàng sau khi bị Hồng quân Liên xô tấn công. Tất cả các thầy
giáo, cô giáo cứ phải dạy trẻ em như vậy. Họ biết là sai nhưng cứ phải bịt mũi
lại mà dạy như thế. Chỉ có Nguyễn Chí Thiện không chịu. Anh nói lại rằng Nhật đầu
hàng vì bị Mỹ thả bom nguyên tử. Nga Xô vẫn còn giữ hiệp ước bất tương xâm với
Nhật suốt thời chiến tranh, chỉ sau khi bom nguyên tử nổ rồi Stalin mới tuyên
chiến với Nhật.
Có ai bắt anh phải cải chính cho lịch sử hay không? Nhưng
Nguyễn Chí Thiện là người như vậy. Cái gánh ở giữa đàng, anh cứ đem quàng vào cổ
mình. Anh bị bắt vào tù, nhưng sự thật vẫn là sự thật, anh giữ ý kiến, vì đó là
sự thật. Hàng vạn người cứ dạy và nghe người ta dạy những chuyện sai lầm, gian
dối cho trẻ em, ai cũng giả dại qua ải. Còn Nguyễn Chí Thiện thì không. Một chế
độ chủ trương gian trá thì cũng sẵn sàng làm tất cả những tội ác, giết người
khác. Nguyễn Chí Thiện cũng không nhịn được, phải gọi tên Cái Ác. Ở cả miền Bắc
Việt Nam có hàng vạn người như anh. Anh là người chịu nhiều cực hình hơn cả.
Trong chúng ta lúc nào cũng có những người cứng đầu, không sợ
hãi, không chịu khuất phục. Hồi 1968 tôi đã chứng kiến một cảnh không quên được.
Chúng tôi theo lệnh động viên, vào trại Quang Trung để huấn luyện quân sự. Gần
1,000 nhà giáo, từ tiểu học đến đại học, lần đầu tiên mặc quần áo lính. Vào
lính được mấy hôm, ai cũng biết thế nào là “kỷ luật nhà binh,” thi hành trước,
hỏi lại sau. Phải tuân lệnh, phải chào kính từ ông thượng sĩ thường vụ, ông
trung úy đại đội trưởng. Sau vài ngày tập đi đúng nhịp, tập vác súng, hạ súng,
xếp súng, tập chạy, tập chà láng nền nhà và cầu tiêu, một buổi tối tập họp, tất
cả ngồi xuống đất trong sân tiểu đoàn. Chúng tôi được gặp vị tiểu đoàn trưởng.
Trước đó, mọi người chỉ được thấy ông đứng trước cửa văn phòng, đeo kính đen,
tay chắp sau lưng, nhìn đám tân binh từ bãi tập trở về, coi đám lính mới chạy
ba vòng hay năm vòng, trước khi được tan hàng, chạy vội vào ăn cơm nhà bàn.
Tối hôm đó, ông thiếu tá, tôi quên tên, giảng giải về quân
phong, quân kỷ, đạo đức, nghĩa vụ, vân vân. Sau gần hai tiếng đồng hồ ngồi im
nghe, ai cũng mệt. Cuối cùng, ông thiếu tá cho biết tiểu đoàn Trần Quốc Toản dự
định xây một cái tượng đài vị anh hùng áo trẻ tuổi. Và ông đề nghị các khóa
sinh, ai sẵn lòng thì góp mỗi người năm đồng, thêm vào quỹ xây tượng đài. Ông
thiếu tá nhấn mạnh nhiều lần: Việc đóng góp hoàn toàn tự nguyện, không bắt buộc.
Tiếp theo, ông lại giảng tiếp về quân phong, quân kỷ thêm mươi phút; sau cùng,
hỏi có ai thắc mắc gì không. Tất cả thở phào sửa soạn đứng dậy, mấy người nói lớn:
“Không!”
Bỗng nhiên có một anh giáo sư đưa tay lên: “Tôi có ý kiến!”
Tất cả nhìn anh ta kinh ngạc. Sau khi ông tiểu đoàn trưởng mời nói, anh tân
binh hỏi: “Thiếu tá nói việc đóng góp năm đồng hoàn toàn tự nguyện, có phải
không ạ?” “Ðúng, hoàn toàn tự nguyện.” “Thưa thiếu tá, nếu vậy thì tôi xin nói
ngay, tôi sẽ không đóng.” Cả tám trăm người ngạc nhiên, nhìn nhau. Nhiều câu hỏi
thì thầm: “Thằng nào vậy? Năm đồng! Chỉ đáng tô phở; làm gì nó phải nói chứ!”
“Sao có thằng ngu thế nhỉ? Ngày mai nó cho cả bọn chạy 10 vòng sân tiểu đoàn,
chứ không phải ba vòng đâu!”
Lúc đó tôi nhớ, đã ghé tai anh bạn ngồi bên nói nhỏ: Nước Việt
Nam bây giờ mình vẫn còn là vì có những thằng như nó đấy. Nếu ai cũng lẳng lặng,
người ta bảo sao nghe vậy, thì mình đã thành người Tàu từ lâu rồi!
Phải kể cho đủ công bình: Mấy tháng sau chúng tôi không phải
chạy nhiều vòng hơn; cũng không phải vác súng nặng hay hít đất nhiều hơn. Số tiền
đóng tổng cộng khoảng 4,000 đồng cũng chừng một tháng lương giáo viên, chẳng lớn
gì. Anh giáo sư đó là Nguyễn Lan, người Thanh Hóa. Và anh Lan vẫn được đối xử
bình thường, sau ba tháng vẫn tốt nghiệp, trở về Biên Hòa dạy học.
Nghĩ đến Nguyễn Chí Thiện lại nhớ đến Nguyễn
Lan. Nước Việt Nam vẫn còn đến bây giờ vì đã có sẵn trong dòng máu những tế bào
sinh sản ra người với tính tình như họ. Tổ tiên chúng ta đời xưa chắc chắn phải
có nhiều người như vậy. Bây giờ vẫn còn những Ðiếu Cầy, Tạ Phong Tần, Mẹ Nấm,
Nguyễn Xuân Diện, vân vân... Dân Việt
Nam có “cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng” như Trần Trọng Kim nói.
Nhưng có những người mang nặng cái nghị lực và cái tính chất riêng đó nhiều hơn
người khác. Nguyễn Chí Thiện đã mang trong dòng máu của anh rất nhiều cái nghị
lực đặc biệt đó. Có hàng vạn người cũng như anh, nhưng họ không phản ứng theo lối
của anh. Tôi nghe kể có một sĩ quan bộ đội, đi đánh Ðiện Biên Phủ trở về thì
ông bố bị tố khổ. Anh đã về làng, tỏ ý ủng hộ bọn chúng nó; anh ra tố cáo tội bố
trước “tòa án nhân dân.” Ngày kết án, anh tình nguyện sẽ bắn bố mình. Anh cầm
súng, đến bên bố nói nhỏ mấy câu, bắn chết bố, rồi quay lại bắn chết luôn bọn
côn đồ, trước khi tự bắn mình. Ðây là một hành động can đảm, đáng kính. Nhưng
chỉ là phản ứng trong phạm vi cá nhân. Nước Việt Nam cần những người tố cáo cái
ác, cái xấu làm hại cho cả dân tộc. Như Nguyễn Chí Thiện, bền bỉ suốt nửa thế kỷ.
Tổ tiên chúng ta chắc có rất nhiều người như anh, cho nên chúng ta không mất nước.
Con cháu chúng ta chắc chắn cũng như vậy. Như anh Nguyễn Chí Thiện, chúng ta có
thể tin. Nước Việt Nam không bao giờ thành một tỉnh hay một quận của Trung Quốc!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét