Diễn từ Nobel Hòa Bình
(Đọc ngày 16-6-2012 tại Oslo, Na Uy)
Sau
21 năm giam cầm trong nước dưới chế độ độc tài quân phiệt, thứ Bẩy 16
tháng 6 vừa qua, Aung San Suu Kyi, nhà tranh đấu cho Dân Chủ Tự Do Miễn
Điện, mới có dịp đọc diễn từ nhận giải Nobel Hoà Bình tại Oslo mà Tổ
chức này đã chính thức trao tặng Bà năm 2001. Lý do mà Bà Aung San Suu
Kyi không sang Norway nhận lãnh giải Nobel Hoa Bình trong năm 2001 là vì
e ngại không được phép trở lại nước để tiếp tục tranh đấu cho Nhân
quyền và Dân Chủ Tự Do. Bà xác nhận, gần đây chính thể Miễn Điện có phần
cải tiến, những lưu ý con đường hoàn thiện hãy còn dài (vietthuc.org)
“The true measure of the justice of a system is the amount of protection it guarantees to the weakest” và “It
is not power that corrupts but fear. Fear of losing power corrupts
those who wield it and fear of the scourge of power corrupts those who
are subject to it”.
(Không
phải quyền lực làm cho tha hóa, mà chính là sự khiếp sợ. Sự khiếp sợ
đánh mất quyền lực làm tha hóa những kẻ đang nắm trong tay quyền lực và
sự khiếp sợ bị quyền lực trừng phạt làm tha hóa những người đang nằm
dưới tay quyền lực).
Thưa Ðức Vua và Hoàng hậu, thưa các vị trong Hoàng gia, thưa các vị
khách quý, các thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy, và các bạn thân mến,
Nhiều năm trước, đôi khi tưởng như đã qua nhiều cuộc đời, tôi đã
từng nghe chương trình phát thanh “Desert Island Discs” (Bộ dĩa nhạc
Hoang Ðảo) với con trai nhỏ của tôi là Alexander ở Ðại học Oxford. Ðó là
một chương trình nổi tiếng (mà theo tôi biết ngày nay vẫn còn đang tiếp
tục), ở đó có những người nổi tiếng từ mọi thành phần trong xã hội
được mời để nói về tám đĩa nhạc, một cuốn sách, bên cạnh Kinh Thánh và
bộ tác phẩm của Sheakspeare, với một vật xa xỉ mà họ muốn có bên mình
nếu như họ bị bỏ lại ngoài một hoang đảo. Khi chương trình kết thúc, cả
hai chúng tôi đều thích thú, Alexander hỏi tôi có nghĩ rằng một ngày nào
đó mẹ có thể được mời nói chuyện trong chương trình này không. “Tại sao
lại không?”, tôi đã nhẹ nhàng trả lời cháu. Vì Alexander biết rằng nói
chung chỉ những người nổi tiếng mới tham gia chương trình này, cháu tiếp
tục hỏi tôi với một sự quan tâm thành thật, rằng tôi nghĩ tôi có thể
được mời vì lý do gì. Tôi nghĩ trong giây lát rồi trả lời; “Có thể vì mẹ
sẽ được giải Nobel về văn chương”, và cả hai chúng tôi cùng cười. Dự
đoán này nghe có vẻ thú vị nhưng rất khó thành hiện thực.
(Giờ đây tôi không nhớ nổi tại sao tôi lại trả lời như thế, có lẽ vì
lúc đó tôi vừa đọc một quyển sách của một tác giả được trao giải Nobel,
hay có lẽ vì danh nhân xuất hiện trong chương trình Hoang Ðảo đã là một
nhà văn nổi tiếng.)
Năm 1989, khi người chồng quá cố của tôi (Michael Aris) đến thăm tôi
trong kỳ hạn đầu của quản thúc tại gia, anh ấy nói rằng một người bạn
của anh là John Finnis đã đề cử tôi cho Giải Nobel Hòa bình. Lần đó tôi
cũng cười. Ngay lúc đó, Michael có vẻ kinh ngạc, rồi anh nhận ra tại sao
chuyện đó lại làm tôi cảm thấy buồn cười. Giải Nobel Hòa bình? Một viễn
ảnh đẹp, nhưng hoàn toàn bất khả! Vậy thì tôi cảm thấy như thế nào khi
tôi thực sự được trao giải Nobel vì Hòa bình? Câu hỏi này đã được đặt ra
với tôi nhiều lần và đây chắc chắn là dịp thích hợp nhất để xem giải
Nobel có ý nghĩa như thế nào đối với tôi, và hòa bình có ý nghĩa gì đối
với tôi.
Như tôi đã nói nhiều lần trong nhiều cuộc trả lời phỏng vấn, tôi đã
nghe tin tức về việc tôi được chọn trao giải Nobel Hòa bình trên đài
phát thanh vào một buổi tối. Tin tức ấy không đến với tôi cùng với sự
ngạc nhiên bất ngờ vì tôi đã được nêu tên như một ứng viên được đề cử
trong một số chương trình truyền hình trước đó vài tuần. Khi thảo bài
nói chuyện này, tôi đã hết sức cố gắng nhớ lại xem phản ứng tức thời của
tôi lúc nghe thông báo ấy là như thế nào. Tôi nghĩ, tôi không còn chắc
chắn lắm, là một cái gì đại loại như: “Ồ! Vậy là họ đã quyết định trao
giải thưởng ấy cho tôi”. Có vẻ như nó không hoàn toàn là thực, vì theo
một nghĩa nào đấy tôi đã không cảm thấy chính tôi đang tồn tại hoàn toàn
thực vào lúc đó.
Thường trong những ngày bị quản thúc tại gia, có cảm tưởng như tôi
không còn là một phần của thế giới thực nữa. Ðã có một căn nhà vốn từng
là thế giới của tôi, đã có một thế giới của những người khác cũng không
có tự do nhưng đã cùng sống chung nhau trong nhà tù như một cộng đồng,
và có một thế giới của những người tự do; mỗi thế giới đó là một hành
tinh khác biệt theo đuổi đường đi của nó trong một vũ trụ dửng dưng.
Ðiều mà giải Nobel Hòa bình đã làm là một lần nữa kéo tôi trở về thế
giới của con người ngoài khu vực bị cô lập mà tôi đã sống; là khôi phục
cảm giác về thực tại đối với tôi. Ðiều này tất nhiên không xảy ra ngay
tức thì, nhưng khi ngày tháng trôi qua và tin tức về những phản ứng đối
với giải thưởng đến tôi qua làn sóng phát thanh đã lắng xuống, tôi bắt
đầu hiểu ý nghĩa quan trọng của giải Nobel. Nó đã làm tôi trở về thực
tại một lần nữa; nó kéo tôi trở về cộng đồng con người rộng lớn. Và điều
quan trọng hơn nữa là giải Nobel đã thu hút sự chú ý của thế giới vào
cuộc đấu tranh cho dân chủ và quyền con người ở Miến Ðiện. Chúng tôi sẽ
không bị quên lãng.
Bị quên lãng. Người Pháp nói rằng chia ly là đã chết đi một ít.
Bị quên lãng cũng chính là chết đi một ít. Ðó là sự mất mát những mối
dây liên kết neo giữ chúng ta với nhân loại. Khi tôi gặp những
người Miến Ðiện là lao động nhập cư và tị nạn trong chuyến thăm gần đây
của tôi tại Thái Lan, nhiều người đã khóc: “Xin đừng quên chúng tôi!”.
Họ muốn nói rằng: “Xin đừng quên cảnh ngộ khốn cùng tuyệt vọng của chúng
tôi, xin đừng quên làm những gì bà có thể làm để giúp chúng tôi, xin
đừng quên chúng tôi cũng thuộc về thế giới của bà” . Khi Ủy ban Nobel
trao giải Nobel Hòa bình cho tôi, họ đã nhận ra rằng sự đàn áp và cô lập
của Miến Ðiện cũng là một phần của thế giới, họ đã nhận ra sự thống
nhất của nhân loại. Bởi vậy đối với tôi nhận giải Nobel Hòa bình về mặt
cá nhân có nghĩa là mở rộng mối quan tâm của tôi về dân chủ và quyền con
người ra khỏi biên giới quốc gia. Giải Nobel Hòa bình đã mở ra một cánh
cửa trong tim tôi.
Khái
niệm hòa bình của người Miến Ðiện có thể được giải thích như hạnh phúc
nảy sinh từ sự chấm dứt những yếu tố ngăn cản sự hài hòa và lành mạnh.
Từ nyein-chan dịch
theo nghĩa đen là cái mát lành đến từ một ngọn lửa đã bị dập tắt. Ngọn
lửa của đau khổ và xung đột đang hoành hành dữ dội khắp nơi trên thế
giới. Ở đất nước của tôi, thái độ thù nghịch và hành động chiến tranh
vẫn chưa mất đi ở những vùng xa phía bắc; ở phía tây, bạo lực của các
nhóm chủng tộc và tôn giáo đối lập đưa tới kết quả đốt phá và giết người
chỉ mới xảy ra cách đây ít ngày trước khi tôi bắt đầu cuộc hành trình
đưa tôi đến đây hôm nay. Tin tức về những hành động tàn bạo ở những vùng
khác trên trái đất thì đầy dẫy. Những bài báo tường thuật về nạn đói,
bệnh dịch, sự di tản, thất nghiệp, nghèo khổ, bất công, kỳ thị, thành
kiến, cuồng tín; tất cả đều là tình trạng hàng ngày của chúng ta. Nơi
nào cũng có những lực lượng tiêu cực gặm nhấm nền tảng của hòa bình. Nơi
nào cũng có thể thấy sự phung phí vật chất và nguồn lực con người một
cách thiếu suy nghĩ, những thứ cần cho sự bảo toàn hạnh phúc và sự hài
hòa trong thế giới của chúng ta.
Thế chiến thứ nhất tiêu biểu cho sự lãng phí kinh khủng tuổi trẻ và
tiềm năng, một sự hoang phí đầy tội ác đối với những sức mạnh tích cực
trên hành tinh của chúng ta. Bài thơ về kỷ nguyên này có một ý nghĩa
quan trọng đối với tôi khi tôi đã đọc nó lần đầu tiên vào lúc tôi bằng
tuổi những người thanh niên trẻ phải đương đầu với viễn cảnh bị héo tàn
trước khi bừng nở. Một người thanh niên Mỹ chiến đấu với lính lê dương
Pháp đã viết trước khi bị giết năm 1916 là anh ta có thể gặp cái chết
của mình “ở một chiến hào ghê tởm nào đó”, “trên triền dốc đầy vách đá ở
một ngọn đồi mòn vẹt”, “vào nửa đêm ở một thành phố nào đó đang bốc
cháy”. Tuổi trẻ và tình yêu, và cuộc sống đã chết mãi mãi trong
những nỗ lực vô nghĩa để chiếm lấy những nơi chốn không tên, không ai
nhớ tới. Và để làm gì? Gần một thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn chưa tìm thấy một câu trả lời thỏa đáng.
Ở mức độ ít bạo động hơn, phải chăng chúng ta không cảm thấy tội lỗi
về sự liều lĩnh, về sự phung phí liên quan đến tương lai của chúng ta và
nhân loại? Chiến tranh đâu phải là đấu trường duy nhất nơi mà hoà bình
bị giết chết. Bất cứ nơi nào sự đau khổ bị làm ngơ thì ở đó sẽ có
mầm mống của xung đột, bởi vì đau khổ làm hạ thấp con người, gây ra cay
đắng và làm người ta nổi giận.
Một điểm tích cực của cuộc sống trong sự cô lập là tôi có khá nhiều
thời gian để suy tư về ý nghĩa của những ngôn từ và khái niệm mà tôi
từng biết và từng chấp nhận trong cả cuộc đời. Là một Phật tử, tôi đã
nghe về dukha, thường được dịch là sự đau khổ, từ khi tôi là
một đứa trẻ nhỏ. Gần như ngày nào cũng thế, những người lớn, và có khi
cũng chẳng phải là ngừơi già cho lắm, những người quanh tôi thầm thì “dukha, dukha”
khi họ phải chịu đựng nỗi đau đớn thể xác hay nhức nhối tâm can, hay
khi họ gặp phải điều gì đó rủi ro, bực bội nho nhỏ. Tuy nhiên, chỉ
trong những năm bị quản chế tại gia, tôi mới nghiền ngẫm được rõ ràng
bản chất của sáu điều gây đau khổ lớn. Ðó là: sinh, lão, bệnh, tử, chia
lìa với người thương, và bị bắt buộc phải sống giữa những người xa lạ
không có tình yêu thương. Tôi suy ngẫm về từng thứ gây đau khổ ấy,
không phải trong bối cảnh tôn giáo mà trong đời sống bình thường hàng
ngày của chúng ta. Nếu như đau khổ là một phần không thể tránh trong sự
tồn tại của chúng ta, chúng ta nên cố gắng làm giảm nhẹ nó hết sức có
thể theo những cách thực tiễn nhất. Tôi đã suy đi nghĩ lại về hiệu quả
của những chương trình chăm sóc bà mẹ và trẻ em trước và sau khi sinh,
về những điều kiện tương xứng cho số dân lớn tuổi; về chăm sóc sức khỏe
toàn diện; về chăm sóc y tế và nhà tế bần cho người nghèo. Tôi đặc biệt
chú ý đến hai loại đau khổ sau cùng: bị chia tách khỏi những người thân
thương và bị buộc phải sống giữa những người xa lạ không có tình yêu
thương. Những trải nghiệm nào mà Ðức Phật của chúng ta có lẽ đã trải qua
trong đời ngài khiến ngài đã bao gồm hai điều này trong sáu điều đau
khổ? Tôi nghĩ về những người bị cầm tù và những người di cư, hay những
công nhân xa xứ và nạn nhân của sự buôn người, nghĩ về những đám đông
như những cái cây bị nhổ bật rễ, những người đã phải xa lìa xứ sở quê
hương, bị chia cắt với gia đình và bạn bè, bị bắt buộc phải sống giữa
những người xa lạ chẳng phải bao giờ cũng chào đón họ.
Chúng ta thật may mắn sống trong thời đại mà phúc lợi xã hội và trợ
giúp nhân đạo được công nhận không chỉ là một điều ước mà là một sự cần
thiết. Tôi có may mắn sống trong một thời đại mà số phận của những tù
nhân lương tâm ở một nơi nào đó trở thành mối quan tâm của mọi người ở
mọi nơi, một thời đại mà dân chủ và quyền con người là điều được công
nhận một cách rộng rãi, cho dù không phải phổ quát trên toàn thế giới,
là những quyền tự nhiên bẩm sinh của tất cả mọi người. Ðã bao lần trong
những năm bị quản chế tại gia, tôi đã lấy thêm sức mạnh cho mình từ đoạn
văn tôi rất ưa thích trong lời nói đầu bản Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân
quyền:
…. Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành
động dã man làm xúc phạm lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế
giới trong đó con người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,
không còn sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên bố như là khát vọng cao
nhất của con người bình thường.
…điều cốt lõi là, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng
đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức, nhân
quyền cần phải được bảo vệ bằng những quy định của luật pháp.”
Nếu người ta hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu cho quyền con người ở Miến
Ðiện, những đoạn văn trên đây sẽ đem lại câu trả lời. Nếu người ta hỏi
tôi vì sao tôi tranh đấu cho nền dân chủ ở Miến Ðiện, thì đó là vì tôi
tin rằng thiết chế dân chủ và sự thực hiện nó là cần thiết để bảo đảm
cho quyền con người.
Trong năm qua đã có dấu hiệu về những nỗ lực của những người tin vào
nền dân chủ và quyền con người đang bắt đầu kết trái ở Miến Ðiện. Ðã có
những thay đổi theo hướng tích cực, đã có những bước đi hướng về dân chủ
hóa. Nếu tôi tán thành chủ nghĩa lạc quan thận trọng thì đó không phải
là vì tôi không có niềm tin vào tương lai mà là vì tôi không muốn khuyến
khích niềm tin mù quáng. Nếu không có niềm tin vào tương lai, không có
sự thuyết phục rằng những giá trị dân chủ và quyền cơ bản của con người
không chỉ là điều cần thiết mà còn là khả dĩ cho xã hội của chúng ta,
thì phong trào của chúng tôi đã không thể đứng vững trong những năm
tháng hủy diệt này. Một số chiến binh đã ngã xuống tại vị trí chiến đấu
của họ, số khác rời bỏ chúng tôi, nhưng nhóm nòng cốt tận tâm thì vẫn
mạnh mẽ và gắn bó. Có lúc nghĩ về những năm tháng đã qua, tôi ngạc
nhiên là đã có rất nhiều người vững vàng trong những hoàn cảnh nhiều thử
thách nhất. Niềm tin của họ vào sự nghiệp của chúng tôi không hề mù
quáng; nó dựa trên một sự đánh giá sáng suốt về sức mạnh của chính họ,
về sự can trường và một sự tôn trọng sâu sắc trước những khát vọng của
dân tộc chúng tôi.
Nhờ những thay đổi gần đây trong đất nước tôi mà tôi có mặt ở đây với
các bạn hôm nay; và những thay đổi này đã đến bởi vì các bạn và những
người yêu tự do và công lý khác đã đóng góp vào sự nhận thức trên toàn
cầu về hoàn cảnh của chúng tôi. Trước khi tiếp tục nói về đất nước tôi,
tôi xin được nói về những tù nhân lương tâm của chúng tôi. Vẫn đang còn
có những người tù như thế ở Miến Ðiện. Thật đáng lo ngại khi những người
bị giam giữ nổi tiếng nhất đã được phóng thích, những người vô danh
khác sẽ bị lãng quên. Tôi đứng ở nơi đây là vì tôi đã từng là một tù
nhân lương tâm. Khi các bạn nhìn vào tôi và lắng nghe tôi nói, xin hãy
nhớ một sự thật thường được lặp đi lặp lại rằng một người tù nhân lương
tâm đã là quá nhiều. Những người chưa được trả tự do, những người chưa
được tiếp cận với lợi ích của công lý trong nước tôi, con số đó lớn hơn
con số một nhiều lắm. Xin hãy nhớ đến họ và xin hãy làm bất cứ cái gì có
thể để tác động đến việc trả tự do cho họ sớm nhất và vô điều kiện.
Miến Ðiện là đất nước nhiều sắc dân và niềm tin vào tương lai của
Miến Ðiện chỉ có thể xây dựng trên nền tảng của tinh thần hợp nhất. Từ
khi giành được độc lập năm 1948, chưa bao giờ có lúc nào chúng tôi có
thể tuyên bố là cả nước đã có hòa bình. Chúng tôi đã chưa thể xây dựng
lòng tin và sự hiểu biết cần thiết để xóa bỏ những nguyên nhân gây xung
đột. Niềm hy vọng đã trỗi dậy qua cuộc ngưng bắn được duy trì từ đầu
thập kỷ 90 cho đến năm 2010 thì bị phá vỡ qua một tiến trình vài ba
tháng. Một hành động thiếu cân nhắc đã đủ để phá tan cuộc ngừng chiến đã
kéo dài khá lâu. Trong những tháng gần đây, những cuộc thương lượng
giữa chính phủ và các lực lượng người dân tộc đã và đang có tiến bộ.
Chúng tôi hy vọng rằng thỏa thuận ngừng bắn sẽ dẫn đến những giải pháp
chính trị được xây dựng trên nền tảng khát vọng của các dân tộc và tinh
thần hợp nhất.
Ðảng Liên hiệp Quốc gia vì Dân chủ của tôi và tôi đã sẵn sàng và mong
muốn giữ bất cứ vai trò nào trong tiến trình hòa giải quốc gia. Những
biện pháp đã được khởi động bởi chính phủ của tổng thống U Thein chỉ có
thể duy trì được với sự hợp tác sáng suốt của tất cả mọi lực lượng nội
bộ: quân đội, các nhóm dân tộc quốc gia, các đảng phái chính trị, truyền
thông, các tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng doanh nghiệp, và quan trọng
hơn hết là công chúng. Chúng tôi có thể nói rằng cuộc cải cách này là
có hiệu quả chỉ khi cuộc sống của nhân dân chúng tôi được cải thiện và
về mặt ấy, cộng đồng quốc tế có một vai trò không thể thiếu. Viện trợ
nhân đạo và viện trợ phát triển, các thỏa thuận song phương và đầu tư
phải được phối hợp và có cân nhắc đến việc bảo đảm tăng trưởng quân bình
và bền vững về xã hội, chính trị và kinh tế. Tiềm năng của đất nước
chúng tôi là hết sức to lớn. Ðiều này cần được nuôi dưỡng và phát triển
để tạo ra một xã hội không chỉ thịnh vượng hơn mà còn hài hòa hơn, dân
chủ hơn, nơi người dân của chúng tôi có thể sống trong hòa bình, an toàn
và tự do.
Hòa bình của thế giới chúng ta là điều không thể chia cắt. Chừng nào
mà những lực lượng tiêu cực còn mạnh hơn những lực lượng tích cực ở bất
cứ nơi đâu, thì tất cả chúng ta đều bị đe dọa. Có lẽ ta có thể đặt câu
hỏi rằng liệu có bao giờ tất cả những lực lượng tiêu cực sẽ bị loại bỏ?
Câu trả lời đơn giản là: “Không!”. Bản chất của con người chứa đựng cả
cái tích cực lẫn cái tiêu cực. Tuy nhiên con người cũng có khả năng tạo
nên và làm mạnh thêm những cái tích cực và làm giảm đến mức thấp nhất
hay trung hòa hóa những cái tiêu cực. Hòa bình tuyệt đối trong thế giới
chúng ta là một mục tiêu không thể đạt được. Nhưng đó là thứ mà chúng ta
phải hướng về trong cuộc hành trình mà chúng ta đang tiếp tục; đôi mắt
chúng ta dán chặt vào mục tiêu đó như người đi trong sa mạc dán mắt vào
ngôi sao dẫn đường sẽ đưa anh ta đến nơi giải thoát. Ngay cả nếu chúng
ta không đạt được hòa bình hoàn hảo trên trái đất, bởi vì hòa bình hoàn
hảo là thứ không có trên trái đất này, thì những nỗ lực chung để giành
lấy hòa bình cũng sẽ đoàn kết mọi cá nhân và mọi quốc gia trong lòng tin
và tình hữu nghị; và giúp tạo ra một cộng đồng người an toàn hơn và tử
tế hơn.
Tôi dùng từ “tử tế hơn” với sự cân nhắc thận trọng. Tôi có thể nói đó
là sự cân nhắc thận trọng của nhiều năm. Trong những sự ngọt ngào của
nghịch cảnh, và hãy cho tôi nói rằng những thứ ngọt ngào ấy chẳng có
nhiều cho lắm, tôi đã tìm thấy cái điều ngọt ngào nhất, thứ quý giá hơn
hết tất cả, là bài học mà tôi đã học được về giá trị của lòng tốt. Tất
cả những sự tử tế mà tôi đã nhận được, dù nhỏ hay lớn, đều đã thuyết
phục tôi rằng lòng tốt có thể không bao giờ đủ trong thế giới của chúng
ta. Tử tế là đáp ứng với sự nhạy cảm và ấm áp của con người trước hy
vọng và nhu cầu của người khác. Ngay cả cái chạm nhẹ nhất của lòng tốt
cũng có thể thắp sáng một trái tim nặng trĩu. Lòng tốt có thể làm
thay đổi cuộc đời của con người. Na-Uy đã cho thấy gương mẫu của sự tử
tế trong việc cung cấp tổ ấm cho những người tha phương trên trái đất,
bảo vệ những người đang bị tấn công, bị cắt đứt chiếc dây neo của an
toàn và tự do với quê hương bản quán của họ.
Ở mọi nơi trên thế giới này đều có những người tị nạn. Khi tôi đến
trại tị nạn Maela ở Thái Lan gần đây, tôi đã gặp những người tận tụy
đang hàng ngày đấu tranh cho cuộc sống của những người tị nạn thoát khỏi
khó khăn chừng nào hay chừng ấy. Họ nói về mối quan ngại của họ đối với
“sự mòn mỏi dần những người tài trợ”, là điều có thể dịch ra thành “sự
mòn mỏi lòng trắc ẩn”. Cụm từ “sự mòn mỏi dần những người tài trợ” tự nó
đã diễn đạt một cách chính xác sự giảm sút nguồn tiền tài trợ. “Sự mòn
mỏi lòng trắc ẩn” tự diễn đạt nó ít hiển nhiên hơn việc giảm sút đi lòng
trắc ẩn. Cái này là hậu quả của cái kia. Liệu chúng ta có thể sống mãi
được với việc tự cho phép mình mòn mỏi đi lòng trắc ẩn? Phải chăng cái
giá của việc đáp ứng nhu cầu cho những người tị nạn lớn hơn cái giá của
sự quay lưng, nếu không muốn nói là nhắm mắt lại trước sự đau khổ của
họ? Tôi khẩn khoản kêu gọi những nhà tài trợ trên thế giới trong việc
đáp ứng nhu cầu của những con người này, những người đang tìm kiếm,
thường là cuộc tìm kiếm vô vọng, sự tị nạn trên một đất nước khác.
Ở Maela, tôi đã có những cuộc thảo luận quý giá với các viên chức
Thái chịu trách nhiệm quản lý điều hành tỉnh Tak, nơi có trại này và
nhiều trại khác. Họ cho tôi biết nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn liên quan
đến các trại tị nạn: vi phạm luật bảo vệ rừng, sử dụng ma túy bất hợp
pháp, cất rượu lậu, các vấn đề về kiểm soát bệnh sốt rét, bệnh lao phổi,
sốt xuất huyết và bệnh dịch tả. Những quan ngại của cơ quan hành chánh
là chính đáng cũng như những quan ngại của những người tị nạn. Các quốc
gia chủ nhà cũng cần có sự xem xét và sự giúp đỡ cụ thể để đương đầu
những khó khăn liên quan đến phần trách nhiệm của họ.
Mục tiêu tối hậu của chúng ta phải là tạo ra một thế giới thoát khỏi
tình trạng có những người phải di tản, những người không nhà và tuyệt
vọng, một thế giới mà từng góc nhỏ và tất cả mọi nơi đều là nơi trú ẩn
thực sự mà những người sống ở đó đều có tự do và có năng lực sống trong
hòa bình. Mọi ý nghĩ, mọi lời nói, mọi việc làm góp phần vào cái tốt và
cái lành mạnh sẽ là một sự đóng góp cho hòa bình. Mỗi người và tất cả
chúng ta đều có thể đóng góp như thế. Chúng ta hãy nắm tay nhau tạo ra
một thế giới hòa bình, nơi chúng ta có thể ngủ trong an toàn và thức dậy
trong niềm hạnh phúc.
Ủy ban Nobel đã kết luận tuyên bố của họ ngày 14 tháng 10 năm 1991:
“Bằng cách trao giải Nobel Hòa bình cho Aung San Suu Kyi, Ủy ban Nobel
Na-Uy muốn vinh danh người phụ nữ này vì những nỗ lực không mệt mỏi của
bà, và thể hiện sự ủng hộ của giải Nobel đối với rất nhiều người trên
khắp thế giới đang tranh đấu để đạt đến dân chủ, quyền con người và hòa
giải dân tộc bằng những phương tiện hòa bình”. Khi tôi tham gia
phong trào dân chủ ở Miến Ðiện chưa bao giờ tôi tự nghĩ rằng tôi có thể
là người nhận bất cứ giải thưởng hay vinh dự nào. Cái giải thưởng mà
chúng tôi đang làm hết sức mình cho nó, đó là tự do, an toàn, và chỉ là
một xã hội mà con người có thể nhận ra được tất cả tiềm năng của mình. Vinh
dự nằm trong những nỗ lực của chúng tôi. Lịch sử đã trao cho chúng tôi
cơ hội để cống hiến những gì tốt nhất của chúng tôi cho một sự nghiệp mà
chúng tôi tin vào. Khi Ủy ban Nobel chọn vinh danh tôi, con đường mà
tôi đã chọn cho ý chí tự do của riêng tôi sẽ trở nên một con đường ít cô
đơn hơn để theo đuổi nó. Vì điều ấy tôi xin cảm ơn Ủy ban và tất cả mọi
người trên thế giới này, vì sự hỗ trợ của họ đã làm mạnh thêm niềm tin
của tôi trên con đường chung tìm kiếm hòa bình. Xin cảm ơn quý vị.
(Source: QueChoa. "Mừng
cho Nguyễn Quang Lập vượt được muôn trùng gian khổ trở về chiếm hữu lại
văn đàn (đã bị rào tường lửa & hackers đánh phá ). Và cả mừng cho Văn chương, cho nhà văn nói chung, trong đó có
mình...(nhà Văn Bảo Ninh).
Chú Thích:
Giải Nobel Hòa bình (tiếng xứ Bắc Âu: Thụy Điển, Đan Mạch và tiếng Na Uy: Nobels
fredspris) là một trong năm nhóm giải thưởng ban đầu của Giải Nobel.
Theo nguyện vọng ghi trong di chúc của Alfred Nobel,
Giải Nobel hòa bình nên được trao "cho người đã có đóng góp to lớn
trong việc đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các quốc gia, trong việc giải trừ
hoặc hạn chế các lực lượng vũ trang và trong việc tổ chức hay xúc tiến
các hội nghị hòa bình". Có nhiều người cho rằng Nobel đã lập ra giải
thưởng này trong di chúc như một cách đền bù cho các chất nổ phát minh
của ông vốn được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh như dynamit hay
ballistite. Thực tế thì ngoại trừ ballistite, không một loại chất nổ nào
của Nobel được sử dụng trong chiến tranh khi ông còn sống.
Giải
Nobel Hòa bình được trao hàng năm vào ngày 10 tháng 12, ngày mất của
Alfred Nobel tại thủ đô Oslo của Na Uy. Trong khi phần lớn các giải
Nobel khác được trao tại Thụy Điển và do một ủy ban của Thụy Điển quyết
định, thì người hoặc tổ chức được xét trao giải Nobel Hòa bình sẽ được
quyết định bởi Ủy ban Giải Nobel Na Uy do Quốc hội Na Uy lập ra. Chủ
tịch hiện tại của ủy ban này, tiến sĩ Ole Danbolt Mjøs
cũng là một người từng được trao Giải Nobel Hòa bình. Sở dĩ có sự khác
biệt này là vì vào thời điểm Alfred Nobel viết di chúc, Thụy Điển và Na
Uy gần như là một liên bang trong đó Chính phủ Thụy Điển chịu trách
nhiệm lĩnh vực đối ngoại còn Quốc hội Na Uy chịu trách nhiệm lĩnh vực
đối nội. Alfred Nobel chưa bao giờ giải thích lý do tại sao ông lại chọn
Na Uy là nước chịu trách nhiệm xét giải Nobel Hòa bình chứ không phải
Thụy Điển,
nhiều người cho rằng có lẽ Nobel muốn loại trừ việc các chính phủ nước
ngoài có thể thao túng Giải Nobel Hòa bình, vì vậy ông đã chọn Quốc hội
Na Uy, vốn không chịu trách nhiệm về quan hệ đối ngoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét