Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

Xuân nương Trưởng quân cơ

Đại-Nan châu rộng thênh thang,
Núi, đồi thung lũng, dân làng sống vui.
Chăn tằm, thả lưới, buông chài,
Đồi cao,lũng thấp,thắm tươi muôn màu.
Ông HUNG-SÁT là trưởng châu,
Chăm dân an lạc trước sau vẹn toàn.
KIM-HOA châu trưởng phu nhân,
Họ ĐINH, gia thế tiếng gần vang xa.
Sinh bảy trai khỏe,rộn nhà,
Khôi ngô, đĩnh đạc toàn gia xiết mừng.
Đêm hè gió mát,trăng trong,
Phu-nhân dạo gót phía Đông ngoạn lầu.
Nô tỳ dăm gái theo sau,
Truyền đem bánh, rượu, ca hầu, múa vui.
Gió đưa hoa thoảng thơm mùi,
Lan, Hồng, Ngâu, Sói, Cúc, Nhài tắm trăng.
Say men thiêm thiếp mơ màng,
Thấy em áo đỏ, thoa vàng dỡn chơi.
Mây hồng Bé cưỡi vui cười,
Phu-nhân mừng rỡ, tay vời Bé xinh.
Phải chăng xưa ước mộng lành?
Được người con gái nay thành trọn mơ !
Mải theo đuổi bắt Bé thơ,
giật mình tỉnh giấc đâu ngờ chiêm bao?!

Mười hai tháng giêng năm sau

Được người con gái nay thành trọn mơ !
Mải theo đuổi bắt Bé thơ,
giật mình tỉnh giấc đâu ngờ chiêm bao?!

Mười hai tháng giêng năm sau,
Bà sinh một gái, khác nào trong mơ !
Đặt tên con, theo đúng mùa,
Tiết XUÂN cảnh đẹp nghìn hoa đón chào.
Tiệc mừng ca múa xôn xao,
Khách đông tới phủ, mừng, trao tặng quà.

Nỗi đâu bất hạnh trong nhà,
Bé XUÂN ba tháng, Bà HOA mãn phần !!!
Bao đau thương xót vô ngần,
MẸ đà khuất bóng,em XUÂN biếng cười.
Suốt ngày đòi nước mía thôi,
Đầy năm chỉ thích củ mài thay cơm.

Phần CHA bận nỗi Nước-Non,
Mưu ngày khôi phục, không còn ngoại xâm.
Bảy trai lớn mạnh hằng mong,
Theo cùng THI-SÁCH ĐẶNG công trả thù.
NƯỚC-NHÀ bao nỗi âu lo,
Tin Ông HÙNG-SÁT giã từ các con.
Nhẹ nhàng ông trút linh hồn,
Ưu tư vầng trán vẫn còn dấu in...

Lời CHA, con trưởng không quên.
Nhiêm trao rành rẽ, chức quyền phân minh.
Võ, văn đôi hướng luyện tinh,
XUÂN-NƯƠNG là út, các anh chăm rèn.
Tin đến từ huyện Châu-Diên,
THI-SÁCH, HÙNG-THẮNG, cùng em đang bàn.
Giặc vào đâm chém dã man,
Hung hăng lục soát, cướp vàng ngọc theo.
... Ôi đau thương đủ mọi điều,
NƯỚC-NHÀ tan tác ai gieo thảm sầu?!
Anh em cùng trốn thoát mau,
Mưu bàn việc lớn cùng nhau báo thù.
XUÂN-NUO*NG xuống tóc giả tu.
Đổi tên,thay họ, đến chùa ẩn thân.
Anh-hào, Nữ-kiệt xa gần,
 
Sớm về kết tụ, nghĩa quân một nguyền.
Mật bàn, mưu lược thâu đêm,
Đổi trao binh pháp, hậu tiền xuất quân.
Đáp lời Chủ-Soái NHỊ TRƯNG,
Toàn dân theo Hịch, hợp cùng khởi binh.
XUÂN-NƯƠNG bàn với hai anh,
Nghĩa quân ta đã luyện rành binh thư.
Quyết tâm khôi phục cơ đồ,
Về HUƠNG-NHA lễ TẾ CỜ tiến quân.

HÙNG-HOÀN chẳng kém HÙNG-LONG,
Võ công tinh nhuệ, tay không bắt thù.
HÁT-MÔN vang dội tiếng hô,
Đoàn quân dũng lược dưới cờ LẠC-LONG,
XUÂN-NƯƠNG trong lớp binh nhung,
Uy nghi lẫm liệt, nữ hùng trưởng cơ.
Giặc tan, quang phục cõi bờ,
Tiệc bày, tước vị phong cho tướng tài.
NỮ-VƯƠNG ân thưởng mọi người,
Được về nguyên quán yên vui,thái bình.
 
XUÂN-NƯƠNG cùng với hai anh,
Hành trang về lại quê mình, mến yêu.
...Thắp nhang tưởng nhớ bao điều,
MẸ-CHA khuất núi mai, chiều ngẩn ngơ.
...Ngậm ngùi trước ảnh án thờ,
Năm Anh Trai giỏi bây giờ mãi xa.!.
Liều thân vì chữ NƯỚC-NHÀ,
Diệt quân tàn bạo, dân ta thoát xiềng.
...Khắp nơi dân sống bình yên,
Mổ trâu, giết lợn, chống chiêng hát mừng.
Chúc lời đại thắng Nữ-hùng,
VUA ban CÔNG-CHÚA ĐÔNG-CUNG ĐỨC TÀI.
Nét xuân, mày liễu, sắc tươi,
Khuê phòng đơn chiếc, đợi người tri âm.

Viên tướng tài ĐẶNG-THI-BẰNG,
Huyết tâm thu phục vinh quang NƯỚC-NHÀ.
Mến XUÂN-NƯƠNG tấu HAI BÀ,
Ước duyên kết tóc, xe tơ, với người.
Công-Chúa ĐÔNG-CUNG đức tài,
SƠN-HÀ mộng lớn hai vai chung nguyền.
Cho bày yến tiệc VUA truyền,
Vạn lời vàng chúc : TÀI HIỀN ĐẸP ĐÔI.

Thái bình dân hưởng an vui,
Ơn VUA, thấm lộc Đất-Trời rưới lan.
... Ngờ đâu lù Hán bạo tàn,
Hỗn quân ào ạt tràn sang cõi bờ.
Toàn dân lại phen gánh lo,
VUA TRƯNG truyền Hịch, phất cờ tiến quân.
Giặc đông người, ngựa rầm rầm,
Hung hăng đốt phá huyện gần,ấp xa.
Than ôi ! binh lửa NƯỚC-NHÀ,
Quên mình, đại nghĩa xông pha chiến trường.
... Có tin tướng ĐẶNG-THI-BẰNG,
Khi vây hãm chết, khi hăng chống thù.
XUÂN-NƯƠNG biết đã nguy cơ,
Múa hai tay kiếm hô to phá vòng.
Thần quan thập bộ thẳng xông,
Cướp thi thể ĐẶNG-PHI-BẰNG chạy xa.
Thế tình nao núng quân ta
Nghĩa binh tử trận, SƠN-HÀ lâm nguy. ! .
XUÂN-NƯƠNG máu chảy đầm đìa,
Bị thương, thai động, người tê mệt nhoài.
Tinh sương ác chiến kéo dài,
Gió rừng phủ lạnh, chiều phai, đêm về.
...Xót chồng con dạ tái tê,
Thương quân tử nạn cũng vì NƯỚC-NON.
Tim đau, lòng quặn, sức mòn,
Thôi đành nghĩ thác, hận nguyền đem theo.
... Truyền quân đến, nhủ đôi điều :
"Lực ta đã cạn, giặc kiêu binh hùng,
Đau lòng thâý cảnh NON-SÔNG,
Giặc gây Quốc biến Gia vong nỗi này ! ! !
XUÂN-NƯƠNG cho làm cỗ chay,
Tế cáo Trời-Đất, Rằm ngày tháng Hai.
Lạy CHA, khấn ANH lệ dài,
Lễ CHỒNG ruột thắt, ngậm ngùi, xót đau.
Hẹn rằng ta sẽ gặp nhau,
Cửu tuyền nhờ nước sông Thao đưa về.

Mưa nguồn đổ xuống rừng khuya,
Gió gào, gió lạnh,sương tê buốt lòng.
... Trên ngựa, thầm vượt bão giông,
Đến chùa HUƠNG-NỘN đi vòng trước sau.
Tiếng mưa giọng oán, giọng sầu,
Thương ôi! Nữ-kiệt vì đâu nạn này?
Vềt thương đầy máu chân tay,
Bụng như dao cắt, động thai đau dồn .
... Lê bước mòn đến bờ sông,
Lạy Trời, lạy Đất, khấn Chồng đón theo.
Vĩnh biệt trần thế, nhẹ gieo,
Ơn VUA, nợ NƯỢC xin liều tấm thân...

Hè Dalat, 1998
Trần-Thị-Hồng-Khương
* Theo tài liệu "THỜI TRƯNG VƯƠNG" của Nguyễn-Khắc-Xương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét