Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Thư mời: Đại hội toàn quân Houston 2011

TỔNG HỘI CỰU CHIẾN SỈ QLVNCH

                   Kính gởi Các Hội Đoàn Quân Đội Houston

            Cùng Qúy Chiến Hửu các cấp QLVNCH

      Đại Hội Toàn Quân Khai mạc năm 2003 tại Nam

    California Thành Lập Tập Thể Chiến Sỉ QLVNCH

    Sau hai năm một lần, Đại Hội Tập Thể Chiến Sĩ   tổ chức Đại Hội tại California, các Hội Đoàn Quân Đội Nam Bắc California mặc Quân Phục Quân Binh Chủng đến tham dự Đại Hội đông đảo đảm trách phần Nghi Lễ rước Quốc Quân Kỳ hổ trợ cho Đại Hội.

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

Việc sử dụng triện son - Kỳ 4

(Kỳ 4)

Đối với Đơn khoản là Song khoản.
Cũng như Đơn khoản, Song khoản cũng khắc Danh Tánh, Tự, Hiệu của người chế tác Ấn, nhưng bên cạnh đó còn khắc cả Danh Tánh, Tự Hiệu của người đặt làm Ấn kèm theo những sáo ngữ có  tính cách xã giao.
Ngoài ra, cũng khắc vài giòng ngắn gọn ghi năm tháng chế tác, lý do, mục đích chế tác Ấn. 
Trong lãnh vực Thư, Họa, phần đề danh tánh, Tự Hiệu tác giả, và năm tháng sáng tác, cũng như đề thi văn.... được gọi là Khoản, hoặc Chí. Khoản và Chí đồng nghĩa, dùng chữ này thay thế cho chữ kia được, nói khác đi, ở đây không có sự phân biệt giữa 2 chữ này.
Trong khi đó, trong lãnh vực Triện khắc, Chí và Khoản có khác.  
Ấn khoản văn, thời cổ đa số theo kĩ thuật Âm văn, hay Bạch văn, tức chữ khắc Chìm đã đề cập ở 1 đoạn trước đây. Tuy nhiên, cũng có Ấn khoản được khắc Dương văn; thể thức khác, danh xưng do đó cũng khác đi.

Việc sử dụng triện son - Kỳ 3

(Kỳ 3)
(3). Kích thước.
Kích thước nói đây là kích thước của mặt phẳng Ấn, tức phần được in lên giấy.
Nói chung, nếu là Tư ấn, tức ấn của tư nhân, kích thước mặt phẳng Ấn không nhất định, mà vốn tùy ý người khắc Ấn. Mặt kia, về mặt Quan ấn, tức Ấn của quan chức, thì kích thước mặt phẳng được qui định rõ ràng, tùy Chức vụ, rồi tùy triều đại, mà kích thước qui định có khác đi. Sở dĩ có sự sai biệt này là do hệ thống đo lường đã thay đổi từ triều đại này qua triều đại khác.
Chẳng hạn ở thời Chiến Quốc, kích thước thông thường của Quan Ấn dạng vuông là vào khoảng từ 2.5 đến 3 cm, và biệt lệ thì có cái đến 6 cm x 5.5 cm.
Tư ấn tương đối nhỏ hơn, mặt Ấn vào khoảng từ 1 tới 2cm, nhưng, cũng có đôi lúc có cái chỉ nhỏ bằng hột đậu vàng.

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

Ẩn số im lặng của Sài Gòn

Phan Nguyễn Việt Đăng
Viết riêng cho RFA từ Sài Gòn
Hà Nội ngày càng sôi động và đa dạng hơn qua các cuộc biểu tình yêu nước. Đến lần biểu tình thứ 10, người ta nhìn các nhân tố mới, cũng như nhiều tư duy đáng ngưỡng mộ của người xuống đường như phản đối sự xâm nhập trái phép của lao động Trung Quốc, vinh danh những tử sĩ ở Hoàng sa 1974 và 1988… Nhưng Sài Gòn, thì vẫn im lặng.
Mỗi buổi sáng chủ nhật, giới an ninh mật vụ vẫn kiên trì giăng bẫy, vẫn hậm hực rà soát quanh Nhà thờ Đức Bà, công viên 23-9.., nhưng gần như không có kết quả gì từ nhiều tuần. Người Sài Gòn đã mệt mỏi với lòng yêu nước bị chà đạp hay sự im lặng đó là một ẩn số đáng chờ đợi?

Phân tích bài "Phú sông Bạch Đằng - Bạch Đằng Giang Phú"

Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh Tế Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”Bặch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.

ÂM VANG TRẬN BẠCH ĐẰNG TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA DÂN TỘC VIỆT. - BÀI 14: TRỞ VỀ QUÊ CŨ LÀNG XƯA SAU 32 NĂM XA SÀI GÒN VÀ 60 NĂM XA HÀ NỘI

* Từ Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu đến Bạch Đằng Giang ca khúc của Lưu Hữu Phước...
Nguyễn Trọng.
Ký sự “Trở về quê cũ làng xưa” của tôi không phải là một nhật ký du lịch ghi chép từng ngày, từng tháng. Được may mắn có mặt tại chính địa danh Bạch Đằng sau 60 năm xa miền Bắc tôi thấy lòng mình nao nao khó tả, vừa sung sướng được trở về quê cũ trước tuổi chiều tà xế bóng, vừa hãnh diện được nghe vang vọng đâu đây bài phú Bạch Đằng Giang của Trương Hán Siêu cùng với bản hùng ca Bạch Đằng của Lưu Hữu Phước. Bài phú bất hủ và bài ca tuyệt vời này đã thấm sâu vào lịch sử dân tộc Việt, thấm sâu vào lòng người dân Việt và đặc biệt là thấm sâu vào tâm hồn và ý chí quật cường chống ngoại xâm của lớp thanh niên Việt trong những năm 1941 đến năm 1945. Vào thời gian vô cùng yêu nước trong lịch sử, tôi còn là một học sinh trung học, chuẩn bị thi Tú Tài theo chương trình Pháp. Thời gian trôi qua đã trên 60 năm mà nay ngồi viết lại chiến thắng Bạch Đằng, tôi vẫn thấy trong lòng nổi lên những tư tưởng và cảm xúc ái quốc dạt dào, sẵn sàng bỏ trường bỏ lớp khoác áo chiến binh ra chiến đấu ngoài mặt trận...

Sau biểu tình là gì ?

Ls. Lê Quốc Quân (danlambao) - Biểu tình thể hiện lòng yêu nước trước sự gây hấn của Trung Quốc là điều tuyệt vời, nhưng có lẽ ai cũng biết đó chỉ là tình thế bắt buộc. Còn cái cần hơn, quan trọng hơn đối với Việt Nam chính là Dân Chủ - Tự Do. Chỉ có như vậy thì đất nước chúng ta mới phát triển và trở nên giàu mạnh như Nhật Bản hay Nam Hàn, lúc đó chắc chắn chúng ta có cơ hội để bảo vệ tổ quốc một cách hữu hiệu hơn...

*

Sự đa dạng của khái niệm

Yêu nước mơ hồ về khái niệm nhưng cụ thể về hành vi. Có bạn cho rằng yêu nước là phải xuống đường, ngược lại cũng có người nghĩ rằng yêu nước là phải ở nhà. Hồi nhỏ ở Nghệ An quê tôi có khẩu hiệu: “mụ trời dẹp lại một bên, để cho thủy lợi tiến lên làm trời”. Khi đó yêu nước là phải phá bỏ chùa chiền, vào hợp tác xã và đi làm thủy lợi. Trước đó nữa thì mẹ tôi bảo vì bố “yêu nước nên đi bộ đội”.

Lần hẹn thứ 11 của những công dân Việt Nam Yêu Nước

Địa điểm tập trung:

Hà Nội: Khu vực Hồ Gươm - Chân tượng đài Lý Thái Tổ, Chân tượng đài Quyết Tử cho Tổ Quốc Quyết Sinh, Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

Sài Gòn: Công viên 23/9, đường Phạm Ngũ Lão

và ở bất kỳ mọi nơi, mọi thời khắc, bằng nhiều hình thức

TỰ PHÁT. SÁNG TẠO. YÊU THƯƠNG.

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát

Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời

Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi... *
TỔ QUỐC TRÊN HẾT!
VIỆT NAM ANH HÙNG MUÔN NĂM!
ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM TOÀN VẸN LÃNH THỔ MUÔN NĂM!

Lòng yêu nước, 
hành động tự phát 
và mục tiêu bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc 
là tinh thần chung của ngày 21.08.2011

TẠI SAO ĐINH BỘ LĨNH CHỌN HOA LƯ LÀ KINH ĐÔ CỦA ĐẠI CỒ VIỆT VÀ TẠI SAO LẠI PHẢI DỜI HOA LƯ VỀ THĂNG LONG?

Trở về quê cũ làng xưa sau 32 năm xa Sài Gòn và 60 năm xa Hà Nội.
Tại sao Đinh Bộ Lĩnh chọn Hoa Lư là kinh đô của Đại Cồ Việt và tại sao lại phải dời Hoa Lư về Thăng Long?
Nguyễn Trọng
Từ trước tới nay, các sử gia có uy tín của nước ta vẫn coi Tự Chủ Thời Đại hay còn được gọi là Thời Kỳ Thống Nhất bắt đầu từ nhà Ngô, mà ông vua đầu tiên là Ngô Quyền.
Nói tới Ngô Quyền, người học sử một cách sơ sài và nông cạn như người viết bài này khi đó học hành thi cử dưới thời Pháp thuộc, thì chỉ biết ông là người đã bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng, đợi cho nước thủy triều lên cao để nhử thuyền quân Nam Hán ngoại xâm vào bên trong hàng cọc. Đợi cho khi thủy triều xuống Ngô Quyền dốc toàn sức tiêu diệt quân Nam Hán bằng một trận quyết chiến, quyết thắng!

Việc sử dụng triện son - Kỳ 2

(Kỳ 2)
(2). Chất liệu.
Từ triều Hán (206 tr. Cn. - 220) trở về trước chất liệu chủ yếu của Ấn là đồng, các chất liệu như vàng, bạc, ngọc thạch, thủy tinh....... cực hiếm thấy, và đôi lúc cũng thấy 1 số Ấn được làm bằng sừng bò, sừng tê, hoặc ngà voi. 
Từ thời Hán trở về sau thì một số kim loại khác cũng đã được sử dụng để chế Ấn, chẳng hạn như chì, sắt, hay bằng một loại hợp kim nào đó. Và càng về sau chất liệu sử dụng để chế tác Ấn càng  phong phú hơn, có thể phân thuật đại khái như sau:
[a]. Chất liệu từ khoáng vật.
Ngọc thạch, phỉ thúy, mã não, hổ phách, Tử sa, đất sét (và những chất thành từ 2 loại thổ sa này là gốm và sứ)......
[b]. Chất liệu từ động vật.
Sừng tê, sừng bò, sừng trâu, ngà voi, vỏ sò......
[c]. Chất liệu từ thực vật.
Trầm hương, Tử đàn, Trúc căn (rễ tre, trúc)......
Cuối đời Nguyên (1279 - 1368) họa gia nổi tiếng Vương Miện (1287 -1359) đã là người đầu tiên dùng đá Hoa nhũ khắc Ấn, khai sáng tư trào sử dụng các thứ Đá để chế Ấn trong giới văn nhân các thời Minh (1368 - 1644), Thanh (1644 - 1911) tiếp theo sau, để dần dà rồi Đá nghiễm nhiên trở thành chất liệu độc bá trong lãnh vực khắc Ấn, cho đến ngày nay.