Lê Trương
Vào năm 1966, cuộc chiến Việt
Nam trở nên dữ dội hơn. Bom đạn trút xuống quê hương càng
ngày càng nhiều, lính ngoại quốc đổ bộ lên đất nước
càng ngày càng đông. Những phong trào tranh đấu ở các đô
thị bị đàn áp tơi bời. Biến cố miền Trung được mang
tên là "một cuộc nội chiến trong một cuộc nội chiến":
Máy bay, xe thiết giáp, lính thiện chiến của chính quyền
trung ương Sàigòn tấn công các thành phố Huế, Đà nẵng.
Giữa lúc đó, cũng chính từ
miền Trung, có một chàng lãng tử gầy ốm với vầng trán
rộng và nụ cười héo hắt đã mang vào Nam hai bài ca nghe
rất buồn thảm: bài Người già em bé và bài Ca dao
mẹ. Một đám người tới với chàng, họ ngồi dưới
đất, trong bóng tối và hát tuyệt vọng như những người
nô lệ da đen đêm đêm ngồi than khóc phận mình. Từ đó,
tiếng hát lan ra khắp các đô thị, tới đâu nó cũng đi sâu
vào lòng người, làm rung lên như một dây đàn từ lâu chờ
người gảy. Phong trào càng ngày càng dâng lên cao, nhất là
sau biến cố Mậu Thân để rồi không có một sức mạnh nào
ngăn cản nổi nữa. Chúng tôi gọi đó là phong trào
DA VÀNG
CA.
Năm 1966, cuộc chiến Việt Nam lại được mang thêm một tên mới: Chiến tranh diệt chủng. Tất cả khả năng cơ khí của nền văn minh Tây phương đều được tận dụng vào cuộc giết người rất khủng khiếp này. Nông dân Việt Nam đã chịu đựng cảnh bom đạn trong nhiều năm nay, càng ngày sức tàn phá của chiến tranh lại càng gia tăng. Trịnh Công Sơn Trịnh Công Sơn đã mô tả sự bi đát hãi hùng của thân phận da vàng Việt Nam trong những lời ca sau: Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình, Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng... Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn. (Đại bác ru đêm) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=f253fKRGcN Đó là thân phận của nông dân Việt Nam. Nay các đô thị cũng nhiều phen chìm trong khói lửa. Người dân thành phố không những đêm đêm nghe tiếng bom dội về làm rung chuyển cả thành phố mà còn sống trong cảnh tàn phá hủy hoại của bom đạn. Chết chóc đã xuất hiện đầy rẫy trong những đường phố: Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng, Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co. Xác người nằm bên nhau, treo trên gầm cầu, Trong góc nhà đổ nát, dưới những hàng thông sâu. Xác người còn xương khô, trong khắp bụi mờ, Sau những đường phố vắng, trên góc đường mấp mô. (Bài ca dành cho những xác người) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=MjvlcaVhxh Trước những biến cố mới đó, quần chúng đô thị bắt đầu hiểu một cách thấm thía cuộc chiến tranh đã kéo dài từ bao lâu nay. Nông thôn cũng như thành thị giờ đây không có một tất đất nào trên quê hương thân yêu này được coi là an toàn. Chiến tranh toàn diện, chiến tranh giành thắng lợi, cho dù thắng lợi là làng mạc hay thành phố biến thành đống tro tàn gạch vụn, trên đó những người được nhân danh cho cuộc chiến này nằm chết ngổn ngang. Cái hình ảnh: Người già co ro, em bé lõa lồ, Từng hạt cơm khô, trong miếng hững hờ, Từng bàn tay khô lấp kín môi cười, Từng cuộn dây gai xé nát da người, Cửa nhà Việt Nam, cháy đỏ cuối thôn... (Người già, em bé) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=rbglCaAqab giờ đây cũng chính là hình ảnh của quần chúng đô thị. Nó không còn là một câu chuyện của một chàng lãng tử ngang qua thành phố kể cho họ nghe trong những cảm giác đau nhức, thú vị. Đó là sự thật. Giờ đây họ thật sự sống trong chiến tranh, cho nên những lời ca đó chính là những lời ca nói về họ. Họ bắt đầu tham dự cuộc chiến tranh. Do đó, sinh hoạt văn nghệ cũng thể hiện rõ ràng cái tâm trạng của họ. Quần chúng trí thức đô thị càng ngày càng thích nghe Ca khúc da vàng, Tình ca Trịnh Công Sơn. Và chỉ trong một thời gian ngắn, loại nhạc này đã trở thành những rung cảm chung của quần chúng đô thị, tạo nên một phong trào văn nghệ rất đặc biệt : |
1. Đặc
tính thứ nhất của phong trào này là phủ nhận cảnh nồi
da xáo thịt.
Giữa lúc những người Việt
đang tham dự một cuộc chém giết nhau, gán cho nhau là tay sai
của đế quốc này hay đế quốc nọ, thì chính trong thâm
tâm họ, họ luôn luôn muốn phủ nhận cái cảnh nồi
da xáo thịt đó. Họ đã từ bỏ con người của họ để
mang những nhản hiệu cho mình, cho người anh em của mình để
đánh nhau trên khắp các chiến trường. Thế nhưng, khi họ
quên hết những nhản hiệu đó, khi họ xóa bỏ những chiếc
mặt nạ mang cho nhau thì họ lại thấy gần gũi nhau, yêu thương
nhau?:
Tôi có người yêu chết trận Plei-me, Tôi có người yêu ở chiến khu D, Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà nội, Chết vội vàng dọc theo biên giới... (Tình ca người mất trí) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM Họ thấy những người chết trong cuộc chiến tranh khủng khiếp này là những người yêu, những người anh em của họ, cho dù những người này ở Plei-me, ở chiến khu D, ở ngoài Hà nội, ở Chu Prong, A Shau, hay bất cứ nơi nào trên giải đất Việt Nam thân yêu này. Tất cả là anh em cùng một màu da, đã cùng nhau trong hành trình vĩ đại của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về để hình thành dân tộc Việt Nam. Tất cả là người yêu của họ. Yêu nhau là chấp nhận những đắng cay, ngọt bùi của nhau như câu ca dao?: "Gừng cay muối mặn, xin đừng bỏ nhau". Không những tôi nhìn nhận anh là người anh em, mà tôi còn coi anh là người yêu, là gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau, là "gần nhau trong tiếng nói da vàng". Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến? Đây là lời tố cáo: Hai mươi năm nội chiến từng giờ, Gia tài của mẹ, một bọn lai căng, Gia tài của mẹ, một lũ bội tình... (Gia tài của mẹ) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=q6WZmAqS9E Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong văn nghệ mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con ngườI văn hóa dân tộc của mình để biến thành một người khác. Đó là trường hợp của những người nô lệ muốn thoát khỏi cảnh tình nô lệ của mình bằng cách chối bỏ khinh rẻ con người của chính mình và muốn trở thành như chủ nhân ông ngoại bang, cùng với nó cai trị những người nô lệ khác. Bọn lai căng đó trở thành một lũ bội tình dân tộc, vì luôn luôn đứng sát với ngoại bang để bóc lột, giết hại đồng bào của họ. Dĩ nhiên, bọn người này không còn là người Việt nữa, nhưng họ vẫn còn da vàng, mũi tẹt. Do đó ngoại bang mới tạo được cái ảo tưởng nội chiến, một ảo tưởng nằm trong chiêu bài của họ để che mất chế độ thực dân, nô lệ. Người Việt đã cảm thấy điều đó, cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau, tự trong thâm tâm của họ, họ vẫn thấy yêu nhau, gần nhau: Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam, Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm, Gọi tên anh, tên Việt Nam, Gần nhau trong tiếng nói da vàng. (Tình ca người mất trí) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM |
2. Đặc
tính thứ hai của phong trào là nói lên tâm trạng nạn nhân
của một cuộc chiến.
Cái bi thảm nhất là ở chỗ
: tay của người Việt ít nhiều đều vấy máu anh em
mình, người yêu của mình. Tự trong thâm tâm họ là anh em,
là người yêu của nhau, nhưng trên thực tế họ chém giết
nhau, nhìn nhau xa lạ. Rồi khi kẻ xa lạ đó nằm xuống,
bổng nhiên nó không còn xa lạ nữa, mà chính là những người
yêu. Những người yêu đó đã:
Bỏ xác trôi sông, Chết ngoài ruộng đồng, Chết rừng mịt mùng, Chết lạnh lùng, Mình cháy như than. Chết cong keo, Chết vào lòng đèo, Chết cạnh gầm cầu, Chết nghẹn ngào, Mình không manh áo. (Tình ca người mất trí) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM Trong cuộc chiến tranh này, không ai ca khúc khải hoàn, không ai nằm chết trong vinh quang. Những người yêu đó đã: Chết thật tình cờ, Chết chẳng hẹn hò, Chết không hận thù, Nằm chết như mơ. Vậy thì đây là cái chết do một trận địa chấn, một cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị một thứ gông cùm xiềng xích vô hình xô đẩy họ vào mâu thuẫn, hận thù, nhưng tận trong thâm sâu của tâm hồn họ, họ không thấy sự mâu thuẫn, hận thù mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy yêu nhau, thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam. Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người đã chết bất đắt kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam. Trịnh công Sơn, Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_C%C3%B4ng_S%C6%A1n |
3. Đặc
tính thứ ba của phong trào là nói lên tâm trạng nô lệ da
vàng.
Quê hương bây giờ không còn
là quê hương thần thoại nữa mà chỉ là một ngục tù trong
đó người Việt da vàng sống như những kẻ bị lưu đày.
Họ không còn chủ quyền trong tay, sinh mạng hoàn toàn không
được bảo đảm, giá trị làm người bị phủ nhận. Thân
phận của họ không khác gì thân phận của những người
nô lệ, sống không ra người, mà chết cũng không ra cái chết
của một con người. Từ hoàn cảnh bi đát này xuất hiện
những tiếng hát mang âm điệu nô lệ da đen, khóc than,
kể lể niềm thống khổ, tủi nhục của những người da
vàng trong cuộc chiến tranh tàn bạo này.
Những bài ca nổi tiếng như Tình ca người mất trí, Ca dao mẹ, Đi tìm quê hương là những bài ca rất buồn thảm, âm hưởng nhạc da đen. Bài ca bắt đầu bằng điệu Blues dìu dặt, rỉ rít, thở than, kể lể như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối, rồi bỗng dưng nhạc vút lên cao, nức nở, gào thét thảm thiết. Những gì trong tâm hồn họ bị nổ ra vì quá đau khổ, u uất, vì không thể đè nén lại được nữa. Những ước mơ từ lâu họ không được quyền nói tới, phải được chôn sâu vào trong lòng, nay bỗng nổ tung trong tiếng hát của người mất trí. Trịnh Công Sơn & Khánh Ly tại Quán Văn 1966 Tất cả những Ca khúc Da Vàng được người ta nghe trong bóng tối, như những lời kinh, những lời vô cùng thảm thiết của những linh hồn bị đày đọa không nơi yên nghỉ, bị một thứ gôm cùm xiềng xích vô hình không cho phép họ sống như những con người. Bây giờ quê hương không còn là quê hương thần thoại nữa mà chỉ là một chốn lưu đày, một ngục tù trong đó người Việt chỉ là loài ma phải chịu cảnh lang thang, đói rét và sự hủy hoại của chiến tranh: Người già co ro, em bé lõa lồ, Từng hạt cơm khô trong miếng hững hờ, Ruộng đồng quê hương dấu vết bom qua. Từng bàn tay khô lấp kín môi cười, Từng cuộn dây gai xé nát da người, Đạn về đêm đêm đốt cháy tương lai... (Người già, em bé) http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=MAeXYk7ZEh Họ sống trong quê hương nhưng luôn mang tâm trạng của kẻ bị lưu đày, ray rức nhớ quê hương: Một ngục tù nuôi da vàng Người Việt nằm nhớ nước non. Người nô lệ da vàng cũng khổ hơn người nô lệ da đen ở chỗ họ mất quê hương chứ không xa quê hương. Người nô lệ da đen nhớ quê hương vì xa quê hương, một quê hương còn nguyên vẹn trong tâm tư với những cánh rừng thiêng liêng huyền diệu. Trong khi đó, người nô lệ da vàng không những nhớ quê hương mà còn thấy quê hương mình trong hình ảnh: Ruộng đồng trơ đất đỏ, Đàn bò không luống cỏ. Người Việt thấy mình không phải là nô lệ nhưng lại phải sống như những cuộc sống của người nô lệ, bị đánh giá như một người nô lệ. Họ có cả ruộng vườn để tự nuôi sống, nhưng bom đạn, chất độc hóa học làm cho: ruộng đồng trơ đất đỏ. Họ có một mái nhà, cho dù là một mái nhà tranh, nhưng: hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn. Họ có bàn tay khối óc để dệt nên tấm vải nâu đen, trồng nên cây lúa cho dù phải thêm sắn thêm khoai, nhưng nay đành bó tay : ngồi xin áo xin cơm. Họ có bốn nghìn năm lập quốc, hình thành dân tộc bất khả phân ly, nhưng nay tưởng chừng như là: ôi đất nước u mê ngàn năm. Anh em lại rơi vào cảnh nồi da xáo thịt. Một thứ gông cùm xiềng xích nào đây đã trói buộc đôi chân họ lại. Họ không còn tự do, không còn độc lập, bắt họ thành nô lệ da vàng. Tới đây một câu hỏi được đặt ra, là tại sao họ dùng những tiếng nô lệ da vàng và tại sao họ lại hát bằng âm thanh nô lệ da đen? Phải chăng họ cảm thấy thân phận của họ giống như thân phận người da đen trong thế kỷ này? Người da đen bị đày xa quê hương, bị mua bán như những đồ vật, bị bắt làm nô lệ, bị bóc lột tận xương tủy, bị coi như không phải là người nữa, bị tất cả mọi tai họa do ngườI da trắng gây nên kể từ khi có những chiếc thuyền vượt biển. Sản phẩm của nền văn minh da trắng là chế độ nô lệ, chế độ thực dân, chế độ thực dân mớI, chế độ đế quốc, là ba mươi triệu người da đen hiện diện trên nước Mỹ, là máu, nước mắt trong rừng núi Phi châu, là chiến tranh Việt Nam trong suốt trăm năm nay. Chữ nô lệ da vàng khiến ta liên tưởng đến chữ nô lệ da đen, rồi chữ nô lệ da đen lại đeo đẳng vào chữ da trắng và sự tàn bạo, vô nhân đạo của nền văn minh vật chất Tây phương. Phải chăng hoàn cảnh da vàng Việt Nam hôm nay cũng là hoàn cảnh da đen Mỹ-Phi? Cho nên đã có nhiều người quá buồn cho phận nước và bật khóc bằng điệu Blues đen vô cùng ảo não qua những "Ca khúc Da Vàng". |
Không thể chịu đựng được
cảnh tình nô lệ, những người nô lệ da vàng đã tìm cách
giải thoát thân phận tù đày của mình: "Phải đập tan
gông cùm, xiềng xích vô hình trói buộc dân ta", phải giành
lấy tự do, độc lập, phải xóa bỏ thảm trạng người Việt
nhìn nhau xa lạ, căm hờn. Họ đã giải quyết bằng cách:
"người nô lệ bước đi, đi về ruộng vườn".
Giải pháp này cũng được
thể hiện rõ ràng qua những phong trào Du Ca, CPS,
Chương
trình Hè, chủ trương cách mạng xã hội của nhóm
Hành
Trình, Thái Độ. Họ quan niệm đất nước đã đổ
vỡ quá nhiều rồi, phân hóa, chia rẽ đến cùng cực rồi,
nên bây giờ phải nghĩ tới việc xây dựng lại, làm cách
mạng xã hội hướng về nông thôn v.v..."Bây giờ không
phải là lúc ngồi đặt vấn đề nữa", họ hát như vậy
và hăng say cuốc đất, làm nhà, đào ao, bắt cầu. Nhưng khi
họ bắt tay vào việc, khi họ va chạm với thực tế thì cũng
là khi họ thấy cái giải pháp đó không đưa tới những kết
quả như ý muốn, không giải quyết được vấn đề xiềng
xích, gông cùm. Những người hăng say nhiệt tình đó trở
nên thất vọng, chán nản, không tiếp tục công tác nữa.
Giai đoạn công tác xã hội chấm dứt để lại cho chúng ta
một bài học quí báu.
Cái lỗi lầm của chúng ta
là ở chỗ không chịu ngồi đặt vấn đề để rồi bị
sa lầy trong chiêu bài cách mạng xã hội do ngoại bang tung
ra để đánh lạc hướng hành động của những người
yêu nước. Sự thật não lòng là chúng ta còn quê hương
đâu, tự do độc lập đâu để mà cày cuốc, mà làm cách
mạng xã hội. Chủ quyền quốc gia đã mất, chân tay ta
đã bị gông cùm, ruộng đồng trơ đất đỏ không thể lên
được ngọn mạ, nhà cửa trong nháy mắt trở thành đống
tro tàn.
"Ca khúc Da Vàng" đã mô tả
hết tất cả những tình cảnh đó. Những người nô lệ da
vàng này không đặt vấn đề ai đã đặt gông cùm xiềng
xích lên đầu cổ họ mà chỉ thấy hậu quả của
gông cùm xiềng xích vô hình đó mà thôi. Do đó họ không
thể giải quyết đúng để giải thoát cảnh ngục tù nô lệ
được. Không giải thoát, họ trở nên tuyệt vọng, hoàn toàn
tuyệt vọng. Thôi, thế là trọn đời lưu vong, không
còn hy vọng có ngày trở về quê hương thần thoại:
Mẹ ngồi ru con,
Đong đưa võng buồn,
Đong đưa phận mình.
Mẹ ngồi ru con,
Nghe đất gọi thầm,
Trọn đời lưu vong.
Giọt lệ ăn năn,
Đưa con về trần,
Tủi nhục chung thân,
Một dòng sông trôi,
Cuốn mãi về trời,
Bấp bênh phận người.
(Mẹ ru con ngủ)
Đong đưa võng buồn,
Đong đưa phận mình.
Mẹ ngồi ru con,
Nghe đất gọi thầm,
Trọn đời lưu vong.
Giọt lệ ăn năn,
Đưa con về trần,
Tủi nhục chung thân,
Một dòng sông trôi,
Cuốn mãi về trời,
Bấp bênh phận người.
(Mẹ ru con ngủ)
Họ bị cô lập với quá khứ
vinh quang và tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ chỉ có
một thực tại là "nhà cháy từng hàng, một rừng xương
khô, một núi đầy mồ". Họ tìm thấy gia tài của mẹ
chỉ có từng ấy, còn bao nhiêu trân châu khác như những anh
hùng liệt nữ, những địa danh ghi dấu những chiến thắng
vinh quang họ không hề nhắc tới. Những trân châu này bây
giờ không sáng bằng "hỏa châu rực sáng", không thể
kết dài được một nhúm lửa đỏ đủ sưởi ấm hy vọng
của họ. Họ tuyệt vọng nên nghĩ rằng mình thành nô lệ
thực sự. Vì mình là nô lệ, là u mê ngàn năm,
là trọn đời lưu vong, tuyệt vọng trên con đường
về quê hương thần thoại, cho nên người da vàng đã có ý
nghĩ:
Xin cho tôi quên phận tù
đày,
Xin cho tôi là thoáng rượu cay,
Xin cho tôi ra khỏi cuộc đờI,
Để khi nào trời đất yên vui,
Xin cho tôi xin lại cuộc đời.
(Xin cho tôi)
Xin cho tôi là thoáng rượu cay,
Xin cho tôi ra khỏi cuộc đờI,
Để khi nào trời đất yên vui,
Xin cho tôi xin lại cuộc đời.
(Xin cho tôi)
Người nô lệ tìm cách giải
thoát thân phận tù đày của mình bằng cách sống trong tù
đày nhưng quên phận tù đày, tưởng chừng như mình không
sống trong cảnh tù đày. Nhưng làm sao có thể quên được?
Chính
rượu cay là phương tiện giải thoát. Đó là lý
do tại sao phòng trà trở nên tấp nập và tình ca bộc phát
thành phong trào. Vậy thì hậu quả của sự tuyệt vọng trên
con đường giải thoát ấy chính là Tình ca.
Bây giờ phòng trà trở thành
chỗ nghỉ ngơi giải khuây của những người nô lệ da vàng
sau những giờ phút sống trong ngục tù của ngày dài trên
quê hương. Ở đây có đủ chất cay để giúp họ
quên phận tù đày: rượu cay, khói thuốc cay, nhạc cay...Trong
cái cảnh đèn thắp thì mờ, những người da vàng ngồi
quanh những chiếc bàn nhỏ, có khi họ ngồi dưới đất, họ
hút thuốc, uống cà phê đậm, uống rượu mạnh và nghe Da
Vàng Ca, Tình Ca. Đó là trường hợp của những quán
Văn, Thơ, quán Trăng, Tre, Gió, Bão...
Lại có những phòng trà khác
dành cho người ngoại quốc và những người nô lệ không
còn thấy mình là nô lệ nữa. Ở đây không khí nhẹ nhàng,
thư thả hơn, lộng lẫy, sang trọng hơn, có vẻ tây phương
hơn. Điều đáng chú ý là người nô lệ da vàng ở đây khiến
ta suy nghĩ: phải chăng mình cứ đeo đẳng vào cái màu da
của mình, với quê hương chiến tranh ngục tù, với cái xã
hội nhược tiểu, chậm tiến, cho nên tự chuốc lấy khổ
đau? Vậy thì phải quên đi, không nhớ thương nữa, phải
xóa bỏ ám ảnh trở về quê hương thần thoại. Chúng
tôi gọi đó là những người nô lệ không còn thấy mình
là nô lệ nữa. Đó là trường hợp các phòng trà Monaco,
Queen Bee, International, Tự Do, v.v...
Nhưng người nô lệ nào rồi
cũng thích Tình ca bởi vì không có thứ rượu cay nào cay đắng
bằng những khúc Tình ca, bởi vì nói như Trịnh Công Sơn:
"Tình yêu cũng mở ngỏ cho những lần hóa kiếp, hãy thử
bước vào thế giới đó để bắt đầu một cái chết thật
vô cùng yêu dấu".
Tình khúc Trịnh Công Sơn,
giọng ca Khánh Ly: đó là một thế giới trong những ngày
hoang sơ thời tiền sử, khi tư tưởng chưa xuất hiện để
tàn phá con người. Chúng ta không thể khám phá thế giới
đó bằng sự suy tưởng được mà chỉ bằng một sự rung
động hồn nhiên của tâm hồn. Ở đây tiếng nói không được
xếp thành câu, câu này không xếp với câu kia cho có nghĩa
này nghĩa nọ, trái lại tiếng nói chỉ là những âm thanh
như tiếng chim kêu trong rừng, như tiếng thoảng qua thung lủng.
Âm thanh bật ra là con tim rung chuyển, là tình yêu tràn ngập
con người. Thế giới Tình ca của Trịnh Công Sơn là như thế.
Khi đi vào, ta không được mang theo gì ngoài bộ óc trống
rỗng, hồn nhiên với năm giác quan thật nhạy cảm. Người
ca sĩ duy nhất của thế giới đó là Khánh Ly. Khánh Ly đứng
trước cổng vườn địa đàng và mời gọi những
kẻ
bị lưu đày di cư vào thế giới tình yêu:
Tình yêu như trái phá,
Con tim mù lòa,
Một mai thức dậy,
Truyện trò với cỏ cây.
(Tình sầu)
Con tim mù lòa,
Một mai thức dậy,
Truyện trò với cỏ cây.
(Tình sầu)
Mưa vẫn mưa bay trên tầng
tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu...
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
(Diễm Xưa)
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu...
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
(Diễm Xưa)
Nói như Trịnh Công Sơn,họ
rủ nhau đi vào cơn mộng du nào đấy để tìm về những
cánh san hô cũ kỹ, đọc trên những dòng sông, tức chính
là chứng nhân già nua nhất của địa cầu đã ghi những gì
về tình yêu. Phải là Khánh Ly mới có thể thực hiện cơn
mộng du được, vì
Khánh Ly chính là con người của thời
hoang sơ tiền sử đó. Trong cơn mộng du, những người
nô lệ khám phá lại được con người đích thật của
mình. Đó là một thế giới mới khác hẳn với cảnh ngục
tù nô lệ trong cuộc đời.
Tình Ca trở thành một giải
pháp thoát ly cuộc đời. Nhưng tình ca không phải là nhạc
giải
thoát cuộc đời, bởi vì nó chỉ là một thứ rượu cay,
bởi vì khi con người nô lệ vừa tỉnh cơn say cũng là khi
cuộc đời ngục tù nô lệ vây phủ lấy phận nó. Nó lại
phải chạy trốn, phải uống thật nhiều rượu cay nữa.
Càng
ngày nó càng uống thêm, uống thêm. Nhưng dù có chạy trốn,
con người vẫn không thể xóa bỏ được cuộc đời trong
tâm hồn nó, cho nên nó lại khát khao trở lại cuộc đời?:
Xin cho tôi ra khỏi cuộc
đời,
Để khi nào trời đất yên vui,
Xin cho tôi xin lại cuộc đời.
Để khi nào trời đất yên vui,
Xin cho tôi xin lại cuộc đời.
Người nô lệ vẫn còn đeo
đẳng với cuộc đời nhưng không tìm cách giải quyết cuộc
đời?: Không giải quyết được thân phận nô lệ của mình
trong cuộc đời mà chỉ chờ khi nào trời đất yên vui
thì
xin
trở lại cuộc đời. Đó là một thái độ bi thảm nhất
của người nô lệ da vàng.
Giờ đây, mùi rượu cay của
những tình khúc đang vây phủ lấy đô thị thân yêu này,
nó vừa giải tỏa đựoc được sự đau khổ của con người
trong giây lát, cũng vừa chôn sâu con người vào cảnh tù đày
nô lệ. Bởi vì con người bị coi là nô lệ vẫn còn là con
người nhờ sự đề kháng, chiến đấu không ngừng
của nó để được làm người. Nếu chối bỏ cuộc
đời, chối bỏ sự đề kháng chiến đấu trên thì không
còn là người trong cuộc đời nữa mà chỉ là nô lệ?: Xin
cho tôi ra khỏi cuộc đời, Xin cho tôi là thoáng rượu cay,
chính là những ý nghĩ tai hại nhất ngăn cản không cho tên
nô lệ thành người sống trong quê hương yêu dấu mà chỉ
làm cho nó thành em bé lõa lồ, suốt đời lang thang.
Có một điều mà Da Vàng Ca
không đề cập tới, là ai đã buộc gông cùm xiềng xích
vào đôi chân ta. Câu hỏi này mạnh như một cơn lốc
cuốn phăng người nô lệ da vàng ra khỏi cơn say, lôi kéo
họ về với thực tại, bắt nó tìm cho thấy câu trả lời.
Trả lời không được thì phải tìm cách trả lời cho được,
chứ
không có quyền tuyệt vọng. Bởi vì tuyệt vọng đồng
nghĩa với nô lệ. Do đó, nếu không muốn bị làm nô lệ
thì không bao giờ được tuyệt vọng trong con đường giải
thoát. Thái độ này được thể hiện trong phong trào văn nghệ
tranh đấu.
LÊ TRƯƠNG
(Hội Sinh viên sáng tác Sàigòn - 1970)
Bản điện tử: Đông Ba (bổ sung tháng 7-2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét